Tạp chí Văn nghệ Hải Dương
Văn nghệ dân gian: "Tìm hiểu lễ hội truyền thống đình - đền Văn Diệm xã Hưng Thái, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương" của Lê Thị Dự
06/01/2022 12:00:00

Xã Hưng Thái ở về phía Tây huyện Ninh Giang. Trước cách mạng Tháng 8 năm 1945 có tên là An Lý, thuộc tổng Văn Hội, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. An Lý lúc đó có ba thôn đó là Triền Thượng, Triền Đồng và Văn Diệm. Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945, sát nhập hai thôn Triền Thượng và Triền Đồng vào một gọi là An Lý. Từ năm 1956 lập xã Hưng Thái gồm hai thôn là An Lý và Văn Diệm, nguồn sống chính của người dân nơi đây là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra có nghề phụ là đan dậm, nghề đan dậm tuy thu nhập không cao nhưng cũng góp phần để người dân có cuộc sống ổn định lúc bấy giờ. Sông Luộc chảy qua phía Tây Nam của xã khoảng 1 km, tạo nên phong cảnh non nước hữu tình. Văn Diệm được coi là vùng sâu vùng xa của huyện Ninh Giang. Đình đền Văn Diệm được xây dựng ở trung tâm làng, trên khu đất cao ráo, gần đường giao thông liên xã, thuận tiện cho mọi người viếng thăm.

 
 Căn cứ hệ thống tư liệu còn lưu tại di tích như thần tích, sắc phong, câu đối, đại tự và tư liệu lưu truyền trong dân gian, được biết đình Văn Diệm thờ thành hoàng có tên là Trần Hương Đăng, là một vị tướng thời Hùng Vương có công giúp vua Hùng Duệ Vương đánh giặc Thục. Thân thế và sự nghiệp của thành hoàng được ghi rõ trong thần tích. Đến thời Lê ngài lại có công phù giúp đánh giặc Minh xâm lược, các triều đại đều ban sắc. Về kiến trúc đình Văn Diệm được xây dựng vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX), gồm 5 gian đại bái và 2 gian hậu cung, hai dãy giải vũ 10 gian, kiến trúc gỗ được chạm khắc cầu kỳ đẹp mắt. Rất tiếc ngôi đình đã bị phá huỷ trong kháng chiến chống Pháp. Ngôi đình hiện nay được nhân dân trùng tu lại trên nền cũ gồm 5 gian đại bái và 2 gian hậu cung, kiểu chữ đinh (J) kiến trúc phỏng theo phong cách thời Nguyễn, đặc biệt có tượng thành hoàng kiến tạo bằng gỗ sơn son thiếp vàng. Cách đình khoảng 200m về phía Bắc là ngôi miếu cổ -nơi tôn thờ thành hoàng xưa kia.

Đền Văn Diệm được nhân dân địa phương xây dựng để tôn thờ hai nhân vật thời Trần là Vương phi Thúc Hoa công chúa tôn thần và con gái là Minh Chiêu công chúa tôn thần. Tương truyền bà Thúc Hoa công chúa là vợ vua Trần Minh Tông (1314 – 1329), khi vua Trần Minh Tông mất, bà đưa con về quê ngoại là Văn Diệm sinh sống, tại đây bà đã bỏ nhiều tiền bạc mua ruộng đất và hiến cho làng để làm việc nghĩa, giúp đỡ tiền bạc cho những người nghèo khó của làng. Sau khi mất hai mẹ con bà được dân làng lập đền tôn thờ đến ngày nay.

Về lễ hội truyền thống:

Trước cách mạng Tháng 8/1945 đình Văn Diệm có hai kỳ lễ hội, kỳ thứ nhất từ ngày 10 đến 15 tháng 8 (âm lịch) là lễ hội mừng chiến công đánh giặc trở về của thành hoàng. Kỳ thứ hai vào ngày 12 tháng 11 (âm lịch) lễ hội kỷ niệm ngày sinh của thành hoàng Trần Hương Đăng.

Diễn biến của các kỳ lễ hội có thể tóm tắt như sau:

- Kỳ hội thứ nhất: Từ mồng 10 đến 15 tháng 8 (âm lịch).

- Ngày mồng 9 tháng 8: Hội đồng tộc biểu và các cụ bô lão và người của các giáp sẽ sửa một lễ gọi là lễ cáo yết, ra đình xin phép thành hoàng cho dân làng mở hội, đồng thời tiến hành các công việc chuẩn bị như vệ sinh toàn bộ khu vực đình và đường đi trong làng, đặc biệt là đường rước kiệu (nghênh thần), bao sái đồ thờ tự, chồng kiệu, cờ quạt… Các gia đình trong làng rộn rịp chuẩn bị lễ vật, tụ hội các con cháu đi làm ăn xa về làng tham dự lễ hội. Không khí trong làng sôi động suốt từ sáng đến đêm, nét mặt ai cũng hân hoan, vui vẻ hơn những ngày bình thường. Các cụ ông trong đội tế nam chuẩn bị quần áo, giầy, mũ, các cụ bà chuẩn bị quần áo dài, áo tứ thân, yếm, thắt lưng, các con cháu chuẩn bị lễ vật dâng cúng thành hoàng.

Làng Văn Diệm có 6 giáp là: giáp Đông, giáp Tây, giáp Nam, giáp Bắc, giáp Đoài và giáp Trung, mỗi giáp có khoảng 1 mẫu ruộng công điền để cày cấy. Khi làng vào đám (lễ hội), mỗi giáp phải có một mâm xôi trắng, một con lợn sống, trầu rượu, hoa quả vàng mã làm lễ vật để tế lễ thành hoàng. Lễ đó khi lễ xong được chia cho các hộ gia đình trong giáp để hưởng lộc. Việc làm lễ dâng thành hoàng các giáp phải làm hết sức cẩn thận, mang yếu tố tâm linh thành kính.

- Ngày mồng 10 tháng 8: Từ sáng sớm, các vị chức sắc của làng và dân làng các giáp đã tập trung tại đình để làm lễ rước. Sau khi dâng lễ thành hoàng thì lập đoàn rước sắc phong. Đoàn rước xuất phát từ đình và rước đến miếu cổ. Đoàn rước được bố trí như sau: đi đầu là đoàn các thanh niên mang cờ, rồi đến đoàn mang bát bửu, tiếp đến đoàn bát âm, sau đó đến kiệu long đình trên đặt sắc phong thành hoàng. Đi theo sau kiệu là các vị chức sắc trong làng xã, rồi đến các cụ đội lễ vật, đội tế và dân làng đi sau. Đoàn rước đi trong nhịp trống dong cờ mở, nhạc lưu thuỷ hành văn. Trang phục đủ mầu sắc của mọi người đã tạo nên nét riêng của lễ hội. Các cụ tế nam trong trang phục áo tế thụng, đầu đội mũ cánh chuồn, chân đi hia, các cụ bà áo dài, áo tứ thân, những thanh niên chưa vợ khiêng kiệu mặc áo nậu đỏ, quấn khăn đầu rìu. Làng quy định những người đội tế và khiêng kiệu không trong kỳ tang chế. Đoàn rước đi đến miếu an vị kiệu xong thì tổ chức tế thành hoàng, tế nam đủ ba tuần rượu xong lại rước trở lại đình. Trong khi đó dân làng, các dòng họ lần lượt đem lễ vật dâng cúng thành hoàng tại đình và miếu.

- Ngày 11 tháng 8: Tổ chức tế thành hoàng tại đình vào buổi chiều, tế đủ ba tuần rượu.

- Ngày 12 tháng 8 (trọng hội): lễ tế thành hoàng ba tuần rượu và dâng lễ “Tam sinh” gồm 1 con lợn, 1 con cá chép và 1 con gà trống cùng hoa quả, giầu rượu…

- Ngày 13 tháng 8: tổ chức tế thành hoàng ba tuần rượu.

- Ngày 15 tháng 8: tổ chức lễ tạ (rã đám), đóng cửa đình và kết thúc lễ hội.

Trong 5 ngày hội, ngoài việc tổ chức rước, tế, lễ, làng còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian như đánh vật, đi cầu kiều, đánh cờ… các buổi tối hát chèo, hát nhà tơ (ca trù), tạo không khí sôi động trong dịp hội. Làng tổ chức trao giải cho những người thắng cuộc, giải chỉ mang ý nghĩa tinh thần là chính, nhưng rất nhiều người hồ hởi tham gia.

Kỳ hội thứ hai: Được tổ chức vào ngày 12 tháng 11 (âm lịch), kỷ niệm ngày sinh của thành hoàng Trần Hương Đăng. Trong kỳ hội này không tổ chức rước, không có các trò chơi dân gian mà chỉ có tế và lễ, làng và các giáp đều phải có lễ vật dâng thành hoàng, lễ vật gồm: xôi trắng, thịt lợn, hoa quả giầu rượu.

Hàng năm tại đền Văn Diệm có các sự lệ như sau:

Ngày mồng 10 tháng Giêng (âm lịch): dân làng đến làm lễ tế xuân, cầu phúc trong dịp đầu năm. Lễ vật gồm xôi, oản, hoa quả, trầu nước…

Ngày 20 tháng 3 (âm lịch): lễ kỷ niệm ngày mất của hai mẹ con bà Vương phi Thúc Hoa, các vị chức sắc của làng, giáp đều phải có lễ vật dâng cúng và tổ chức tế, lễ.

Ngày 15 tháng 7 (âm lịch), dân làng làm lễ vu lan, lễ vật cúng chay.

Theo thần tích còn lưu tại đình Văn Diệm, xa xưa dân làng ở đây có rất nhiều sự lệ trong một năm nhất thiết phải thực hiện không bỏ qua một sự lệ nào. Có thể kể ra như sau:

Ngày 11 tháng 11 âm lịch, trước ngày sinh của thành hoàng 1 ngày, làng phải có lễ cáo yết để đón thần nhập tượng, lễ dùng thịt lợn đen toàn sắc, thịt trâu, bò, xôi, rượu, ca hát 10 ngày.

Ngày 12 tháng 8 âm lịch, là ngày khánh hạ (chúc mừng), làng và các giáp phải làm lễ đón tế, lễ dùng thịt lợn, trâu, bò, xôi, rượu, ca hát 3 ngày.

Ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch, là ngày nhất khánh hạ, hành lễ dùng thịt lợn đen, xôi, rượu, ca hát, đánh cờ 3 ngày.

Ngày 13 tháng 3 âm lịch, là ngày nhất khánh hạ thánh phụ, hành lễ dùng thịt lợn đen, xôi, rượu, ca hát 1 ngày.

Ngày 15 tháng 6 âm lịch, là ngày nhất khánh hạ chính kỵ, nhất khánh hạ thánh Mẫu, lễ vật dùng xôi, hoa quả, ca hát.

Làng có lệ kiêng tên huý thành hoàng, kỵ hai chữ Hương Đăng, chính huý nhất thiết cấm dùng hai chữ Quảng Tê…

Trải nhiều biến động xã hội, để phù hợp với cuộc sống đương thời, dần dần các sự lệ quá cầu kỳ, tốn kém tiền bạc và công sức của người dân được giảm bớt. Bởi xưa kia lễ hội vui thật, nhưng đồng thời cũng là nỗi lo của nhiều gia đình khó khăn, vì phải lo lễ vật nhiều kỳ và cầu kỳ trong một năm đã ảnh hưởng đến đời sống và việc làm ăn của người dân. Một số nhà chỉ vì góc chiếu giữa đình mà phải bán ruộng, vườn, gán vợ, đợ con, thậm chí còn có người phải tha phương cầu thực.

Ngày nay lễ hội đình, đền Văn Diệm được nhân dân khôi phục và tổ chức, vẫn duy trì hai kỳ lễ hội, nhưng không kéo dài ngày, các tục lệ, lễ vật dâng cúng đều rút gọn lại, chỉ còn tế, lễ và cúng dâng hương oản quả. Trong dịp lễ hội, các con cháu đi làm ăn xa vẫn tụ họp về làng để sum họp gia đình, dòng tộc, cùng nhau làm lễ dâng cúng thành hoàng và các bậc tiền nhân, tỏ tấm lòng thành kính trong dịp lễ hội thiêng liêng của làng. Nét đẹp trong lễ hội đình, đền Văn Diệm thể hiện tinh thần đoàn kết, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những người có công với dân với nước. Đó chính là hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần của người dân. Sau một năm lao động vất vả, dịp hội làng là lúc người dân thảnh thơi, vui vẻ hưởng thụ văn hoá tinh thần trong tình làng nghĩa xóm cùng tôn thờ các vị thành hoàng.
Các tin mới hơn
Tản văn "Về với mẹ" của tác giả Nguyễn Thế Trường(10/02/2025)
Ngày cuối năm(07/02/2025)
Truyện ngắn "Nụ hôn đầu" của tác giả Nguyễn Sỹ Đoàn(07/02/2025)
Ký "Người cựu binh say đắm với những trang sách văn hóa dân tộc" của tác giả Vũ Tuyết Mây(07/02/2025)
Tiếng nạng gỗ(06/02/2025)
Các tin cũ hơn
Truyện dịch: "Cuộc phiêu lưu tuyệt vời của chú mèo thành Mossoul" (Tác giả Élise Fontenaille -Pháp) - QUYÊN GAVOYE dịch(30/12/2021)
Truyện ngắn "Hồ sương" của Phan Mai Hương (29/12/2021)
KIẾN TRÚC: Để sông Sặt trở thành trục cảnh quan sinh thái của thành phố Hải Dương của KTS. Nguyễn Văn Thường(29/12/2021)
Chùm thơ của các tác giả Trần Thùy Linh, Nguyễn Huy, Tạ Kim Khánh, Khánh Ly, Nguyễn Phú Ninh(27/12/2021)
Chùm thơ của các tác giả Vũ Minh Thoa, Hà Trọng Đạm, Nguyễn Ngọc San, Nguyễn Xuân Bối(20/12/2021)
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na