Tạp chí Văn nghệ Hải Dương
“THẦN TỐC, TÁO BẠO, QUYẾT THẮNG” TIẾN VÀO GIẢI PHÓNG SÀI GÒN (30/4/1975)
27/05/2025 08:00:24

Anh hùng, Thượng tướng, Viện sĩ, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu kể, Nhà văn Vũ Tuyết Mây ghi

 

 
 
Những ngày đầu tháng Tư năm 2024, tôi cùng một số phóng viên có vinh dự được gặp và trò chuyện với Anh hùng, Thượng tướng, Viện sĩ, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Huy Hiệu. Hồi ức về những ngày hành quân thần tốc, táo bạo đánh chiếm và giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam (30- 4- 1975, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu nhớ lại:

Hai giờ chiều ngày 23 tháng 3 năm 1975, tôi (khi ấy là Trung đoàn trưởng của Sư đoàn 390, Quân đoàn 1) cùng anh Trịnh Văn Thư, chính ủy Trung đoàn, được Sư đoàn gọi lên nhận nhiệm vụ gấp. Tại đây Sư đoàn trưởng Lưu Bảo Xá giao nhiệm vụ:

- Trung đoàn 27 có nhiệm vụ đi đầu đội hình của Sư đoàn và Quân đoàn, đánh thọc sâu, mở cửa để các đơn vị toàn chiến dịch tiến đánh giải phóng Sài Gòn - Anh cho biết kế hoạch cụ thể: Tình hình chiến trường đang diễn biến rất khẩn trương. Địch đang trên đà tan rã lớn về tổ chức, suy sụp về tinh thần. Sư đoàn chỉ dùng Trung đoàn 27 của các đồng chí cùng với Tiểu đoàn 66 xe tăng của lữ đoàn 202, nhanh chóng đánh chiếm đèo Hải Vân, sau đó phát triển phối hợp với 1 số đơn vị đánh chiếm sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước mặn, Bán đảo Sơn Trà.

Anh Đỗ Mạnh Đạo, Chính ủy Sư đoàn bổ sung:

- Trước mắt cần động viên quyết tâm chiến đấu cao nhất của cán bộ, chiến sĩ, thực hiện 5 yêu cầu của Quân ủy Trung ương, quyết đánh thắng: Kịp thời nhất, nhanh nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, chắc thắng.

Anh Lưu Bá Xảo nhấn mạnh:

- Ngay chiều nay, sở chỉ huy của Sư đoàn cùng các đơn vị tăng cường cho Trung đoàn sẽ hành quân gấp. Các anh về khẩn trương chuẩn bị bước vào chiến đấu.

16 giờ ngày 25 tháng 3, Tiểu đoàn xe ô tô vận tải của Trung đoàn 13, Đoàn 559 đã có mặt ở Trung đoàn 27. Tôi cho 3 xe chở cán bộ và trinh sát đi đầu nắm địa hình và tình hình địch, đồng thời giữ liên lạc với đại quân phía sau. Đoàn xe chuẩn bị xuất phát thì lãnh đạo Quân đoàn đến động viên và giao nhiệm vụ: “Các đồng chí phải cắm bằng được lá cờ Quyết thắng lên bán đảo Sơn Trà-Đà Nẵng đúng thời điểm”.

12 giờ đêm ngày 26 tháng 3, Trung đoàn 27 vào tới Huế. Huế vừa giải phóng, đâu đâu cũng cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng nửa đỏ nửa xanh. Tôi lệnh cho anh em lái xe:

- Qua cầu Tràng Tiền, vượt đèo Hải Vân, mục tiêu của chúng ta là bán đảo Sơn Trà.

Vào đến Đà Nẵng, tôi tìm đến Sở chỉ huy tiền phương là Quân đoàn 2. Vừa gặp Tư lệnh Quân đoàn, tôi báo cáo:

- Theo hiệp đồng, chúng tôi đã đến đúng thời gian, nhưng địch thua nhanh quá.

Đồng chí Tư lệnh Quân đoàn cười:

- Theo kế hoạch Trung đoàn 27 cùng một đơn vị của Quân đoàn 2 hợp thành đánh vào thành phố Đà Nẵng, theo trục đường 1. Nhưng ta mới đánh đến đèo Hải Vân thì lực lượng Quân khu 5 đã giải phóng thành phố rồi.

Vừa lúc Bộ Tổng Tham mưu lệnh cho Trung đoàn 27 chúng tôi, nhận trang bị bổ sung, rồi theo đường Hồ Chí Minh vào Đồng Xoài. Tôi được biết, ngay từ ngày 18 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã đề ra chủ trương lớn về trận quyết chiến, đánh vào Sài Gòn - Gia Định, với Nghị quyết: “Nắm thời cơ, tập trung nhanh nhất lực lượng (từ 12 sư đoàn trở lên), tập trung binh khí, kỹ thuật và vật chất giải quyết xong Sài Gòn – Gia Định trước mùa mưa”.

Phía địch bố trí hẳn Quân đoàn 3, cùng số tàn quân của Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 dồn về cùng tổng quân dự bị, phòng thủ vòng trong vòng ngoài dày đặc, xung quanh Sài Gòn –Gia Định, chưa kể 5 liên khu tuyến nội đô, mỗi liên khu gồm 2 quận, do lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự đảm nhiệm.

Tôi hội ý với Ban chỉ huy Trung đoàn:

- Thời cơ đánh vào hang ổ của kẻ thù đã đến, Trung đoàn chúng ta sẽ “hành quân thần tốc, Quyết thắng” đóng góp vào chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định.

Khi ấy, ngoài khí thế và ý chí quyết thắng của quân và dân ta lên rất cao, lại có lực lượng vượt trội so với địch về quân số và kỹ thuật: Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và (Đoàn 232 tương đương với 1 Quân đoàn mạnh). Binh chủng kỹ thuật: ta có 20 lữ đoàn, trung đoàn và 8 tiểu đoàn pháo binh; 3 lữ đoàn, trung đoàn và 6 tiểu đoàn tăng thiết giáp; 8 lữ đoàn, trung đoàn và 2 tiểu đoàn đặc công, 4 trung đoàn và 10 tiểu đoàn thông tin; giáp 2 sư đoàn ô tô vận tải; ngoài ra còn có lực lượng không quân và hải quân.

14 giờ ngày 4 tháng 4 năm 1975, đoàn xe chở Trung đoàn 27, Sư đoàn 390, Quân đoàn 1, được lệnh xuất phát từ Đông Hà qua Khe Sanh, theo đường Hồ Chí Minh tây Trường Sơn, thẳng tiến về hướng Nam, với một khí thế cách mạng một ngày bằng 20 năm.

Đường Hồ Chí Minh thời điểm này trong tình trạng quá tải. Xe chở bộ đội, hàng hóa, kéo pháo, tăng thiết giáp nối nhau, nườm nượp chạy về Nam. Cả dãy Trường Sơn rùng rùng chuyển động. Đội hình của Trung đoàn 27 chúng tôi nằm trong đội hình của Sư đoàn, nối liền với các đơn vị bạn trải dài trên con đường mang tên Bác. Chúng tôi đi cả ngày lẫn đêm, chỉ dừng lại ở những chỗ có nước cho bộ đội thổi cơm. Hết thời gian dừng, bếp nào cơm chưa chín mang cả nồi và bếp lên xe vừa đi vừa thổi. Ngày đầu chúng tôi đi được 100 km, dần tăng lên 150 rồi 200 km, có ngày đạt kỷ lục 300 km. Xe chạy suốt ngày đêm, dưới cái nắng nóng hầm hập, bụi cuốn mù mịt. Mặt đất như bị nung đốt, cháy thành cát bụi. Nóng và bụi khủng khiếp. Những cánh rừng xanh, khoác lên mình tấm áo choàng đỏ bụi đất bazan. Không khí đặc quánh bụi, ngột ngạt. Bộ đội tuy khẩu trang che kín mặt, nhưng bụi vẫn chui cả vào lỗ tai, lỗ mũi, quần áo, đầu tóc đỏ quạch. Có những đoạn xe sau chỉ cách xe trước chừng 5-7 mét mà không nhìn thấy nhau. Mặc. Xe vẫn nối nhau lao đi trong cơn bão bụi và nắng nóng. Cả cánh rừng rung chuyển ầm ầm trong tiếng máy nổ của các loại xe.

Nóng và bụi đi liền với khát. Trường Sơn trong những ngày này bi đông chỉ là chai nước rất nhỏ trong cơn khát đường dài. Những đoạn ngầm, những con suối hung dữ trước kia, nay trơ sỏi đá, may lắm mới gặp một khe suối nhỏ, bộ đội lao tới hứng, chắt từng bát nước chia nhau.

Đến Bắc Tây Nguyên, qua đèo Ăm Bun, Dốc Nứa hàng trăm xe phải dừng lại vì một chiếc bị hỏng. Giữa lúc ấy, chúng tôi nhận được mệnh lệnh của Đại Tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và quyết thắng; 2. Truyền đạt tức khắc đến từng đảng viên, chiến sĩ.”

(Văn)

7 - 4 – 1975

Khẩu hiệu “Thần tốc, táo bạo” của Đại tướng, được các chiến sĩ viết vội dán ở đầu xe, viết ngay trên mũ.

Thấy tình hình có vẻ chậm trễ, tôi chạy lên chỗ chiếc xe nằm ì nói với cánh lái xe: “Tôi là Nguyễn Huy Hiệu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27, các anh có nghe mệnh lệnh thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không?”.

Nghe tôi nói vậy, những lái xe đoàn 559 nói với nhau: “Nghe tên từ lâu giờ mới gặp. Anh ấy trẻ thế mà đã là Trung đoàn trưởng”, rồi tất cả lùi xe, nhường đường cho Trung đoàn 27. Nhưng đường hẹp, xe không lên được, tôi quan sát rồi quyết định mở đường tránh. Vậy là anh em ai có cuốc dùng cuốc, ai có xẻng dùng xẻng, có dao dùng dao. Sau hai giờ, một cây số đường hoàn thành, đoàn xe tiếp tục lên lao đi.

Ngày 10 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 27 đến thị xã Buôn Ma Thuột, nơi vừa diễn ra cuộc tiến công mở màn cho cuộc tổng tiến công Mùa Xuân (1975) của cả dân tộc ta.

Thị xã Buôn Ma Thuột: Xe chở tên lửa, xe kéo pháo, xe chở phà, thuyền cồng kềnh, xe tải đầy ắp hàng, ngụy trang kín mít, dài như những đoàn tàu; xe tăng T.54, T.58, xe bọc thép K63 thân đỏ bụi đường… tất cả đều hối hả chạy về hướng Sài Gòn. Ở những trạm ba-ri-e chiến sĩ công binh, trinh sát, truyền đạt tin tức thức suốt đêm ngày, để hướng dẫn các đoàn quân và các đoàn xe.

Trung đoàn 27 cứ lặng lẽ cắt rừng, đi xuyên đêm cùng những chiếc xe tăng, xe kéo pháo hạng nặng, pháo binh, công binh, cao xạ nối với những đoàn xe ô tô vận tải đầy ắp gạo, đạn, giấu mình trong những cành lá ngụy trang, chạy về hướng Sài Gòn.

Đi trong những ngày này, tôi mới thấy hết được tầm vóc vĩ đại, trí thông tuệ và sự sáng tạo, dũng cảm của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, và thấy được thế vững chắc của tuyến vận tải chiến lược khiến kẻ địch không thể xoay chuyển được.

Chiều 21 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 27 chúng tôi vào đến nơi tập kết theo quy định. 20 giờ hôm đó, sau khi Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức Tổng thống ngụy trên Đài Phát thanh Sài Gòn, tôi nhận được thông báo: Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch đã hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn trong thời hạn ngắn nhất. Nhiệm vụ của Trung đoàn 27 là phối hợp, đột kích mạnh, liên tục, vừa đánh ở ngoại vi, vừa thọc thẳng vào trung tâm thành phố, phải chiếm được Bộ Tổng tham mưu, tiểu khu Gia Định và khu bộ tư lệnh các binh chủng quân ngụy với tinh thần thần tốc, bất ngờ. Trên sẽ tăng cường cho chúng tôi một đại đội xe tăng, một tiểu đoàn cao xạ 37, 57 ly, hai đại đội pháo binh, một đại đội 12 ly 7, một trung đội súng phun lửa, một đại đội vận tải, để đánh chiếm đường 16, mở cửa cho Sư đoàn đưa lực lượng vào đánh thọc sâu.

Trước khi vào chiến dịch, tôi mở hội nghị quân chính toàn Trung đoàn, quán triệt tinh thần cho anh em: Nhiệm vụ của chúng ta là phải đập tan tuyến tử thủ phía bắc Sài Gòn, trên trục đường 13, không được cho địch phá cầu, để đại quân thọc vào nội đô. Vì thế, chúng ta phải tập trung toàn bộ lực lượng, nêu cao tinh thần đoàn kết hiệp đồng, đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, với quyết tâm nắm vững thời cơ, thần tốc, táo bạo, thọc sâu. Trong trận đánh cuối cùng này, Trung đoàn 27 chỉ có thể lưu danh trong Bảo tàng. Nếu phải hy sinh, mặt chúng ta phải hướng về Sài Gòn! Trung đoàn giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 4 làm nhiệm vụ mở rộng hành lang, Tiểu đoàn 5 luồn sâu, lót sẵn ở Lái Thiêu, Tiểu đoàn 6 nhận tăng cường xe tăng, xe bọc thép và 25 xe vận tải chở quân, có nhiệm vụ thọc sâu đánh chiếm khu binh chủng của ngụy. Trung đoàn hình thành ba mũi tiến công, từ vị trí xuất phát, ta phải vượt qua 3 tuyến phòng thủ của địch: 1 là tuyến phòng thủ từ xa, trên đường 16 (phía bắc Sài Gòn); 2 là tuyến trung gian (trên đường số 8), 3 là tuyến tử thủ (trên tuyến đường 13 - đường Đại Hàn) khu Lái Thiêu, cầu Vĩnh Bình, cầu Bình Lợi, với chiều dài 80 km. Thời gian rất gấp. Nói rồi tôi giơ nắm tay hô lớn:

- Các đồng chí có quyết tâm không?

Cả cánh rừng như vỡ ra bởi những tiếng hô và những cánh tay giơ lên: Quyết tâm!... Quyết tâm!… Quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 27.

Đêm đó tôi lặng lẽ đi kiểm tra, nghe được câu chuyện của hai chiến sĩ người Hà Nội:

- Anh thấy chiến dịch này thế nào?

- Giải phóng miền Nam là cái chắc rồi. Chỉ có điều chúng ta có còn về ăn kem bờ hồ nữa không thôi. Nhưng dù có hy sinh, mặt cũng phải hướng về Sài Gòn!

Tôi vô cùng cảm động và thầm cảm ơn những chiến sĩ hết mực yêu quý của tôi.

Đêm 25 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 27 vượt sông Bé sang bờ Nam, để vào vị trí. Chỗ tập kết chuyển quân, địa hình trống trải, khó giấu quân và giữ bí mật, trong khi pháo địch từ Lai Khê, Bến Cát bắn tới nổ chát chúa, nhưng tinh thần vượt sông không nao núng.

Tôi và anh Trịnh Văn Thư - Chính ủy Trung đoàn, anh Nguyễn Viết Giáp-Tham mưu trưởng, anh Lê Văn Nhiệm - Chủ nhiệm chính trị, anh Nguyễn Văn An - Chủ nhiệm hậu cần đi với mũi thọc sâu của tiểu đoàn 6, đồng chí Lê Quang Thúy Phó Tư lệnh Sư đoàn 390 trực tiếp chỉ đạo Trung đoàn 27 cùng đi với chúng tôi.

Phân công xong nhiệm vụ, tôi lệnh cho các đơn vị lên đường ngay đêm ngày 25 tháng 4. Tiểu đoàn 4 nhanh chóng đánh chiếm đường số 8. Tiểu đoàn 5 vượt ngã ba Bình Cơ xuống cánh đồng hoang đầy cỏ dại lánh địch để đến Lái Thiêu –tuyến tử thủ của địch theo hiệp đồng.

Nửa đêm 28 tháng 4, tiểu đoàn 5 phải dừng lại bên con suối nhỏ gần ngã ba Tân Hiệp hơn một giờ đồng hồ vẫn chưa qua được, do pháo sáng địch không lúc nào tắt. Tôi điện đài ra lệnh cho tiểu đoàn trưởng: “Tiểu đoàn 5 phải tìm mọi cách, có mặt ở Lái Thiêu ngay trong đêm nay”. Ngay lúc ấy, tôi nghe thấy tiếng của Tiểu đoàn phó nói với Tiểu đoàn trưởng: “Tiểu đoàn 5 không tránh địch như hai đêm trước, mà ta phải vừa đánh vừa tiến vào tử huyệt của chúng”. Cùng lúc ấy trinh sát báo tin, bắt được 2 tên thám báo. Tiểu đoàn trưởng giao ước với 2 tên này, nếu chúng dẫn đi đường nào nhanh nhất, an toàn nhất, sẽ được tha tội. Hai tên tù binh vội trả lời: “Chúng tôi xin chấp hành, chỉ xin các ông tha tội chết”. Tôi nhắc lại với Ban chỉ huy tiểu đoàn: “Nhiệm vụ của các anh là có mặt ở lái Thiêu đúng giờ. Cần đẩy nhanh tốc độ tiến quân”.

Ở hướng khác, ngay chiều ngày 27 tháng 4 năm 1975, Tiểu đoàn 4 đã áp sát phía Tây Bắc Tân Uyên, phía sau là các đơn vị cơ giới thọc sâu. Những chiếc xe tăng, thiết giáp, kéo pháo cùng xe vận tải chở bộ đội phủ kín lá ngụy trang nối nhau chờ lệnh.

Chiều ngày 28 tháng 4, tôi nhận lệnh của Sư đoàn, bằng giá nào, ngay trong đêm nay, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 27 cũng phải chiếm được phía Tây Bắc Tân Uyên (1 cửa ngõ của Sài Gòn). Đây là tiểu đoàn được giao nhiệm vụ đánh trận mở màn cho cả Trung đoàn, Sư đoàn, tạo không khí và mở cửa cho mũi thọc sâu của Sư đoàn đánh thọc sâu. Vậy nên trời còn tối đất, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 4 mình kín lá ngụy trang, đã tiến sát các vị trí địch.

4 giờ chiều 28 tháng 4, tôi cho các trận địa pháo của Trung đoàn bắn thử để xác định. Những quả pháo của ta khi ấy như báo cho chúng biết điều gì sắp xảy ra.

16 giờ 45 phút ngày 28 tháng 4, các mũi, các hướng báo về sở chỉ huy đã ém xong quân. 17 giờ tôi lệnh cho các trận địa pháo 85 ly nòng dài, cối 120 ly đồng loạt bắn vào trung tâm quận, lỵ. Các trận địa cối 82 ly, 60 ly bắn vào các cụm quân địch ở vòng ngoài. Sau loạt đạn pháo của ta, đèn điện, đèn dù phụt tắt, các trận địa pháo của địch câm bặt. Thì ra pháo ta bắn trúng một số mục tiêu cơ bản trong chi khu, gây nhiều đám cháy lớn, khiến chúng không kịp phản ứng. Sau 30 phút, ta chuyển làn rồi ngừng bắn để cho bộ binh tiến công vào các chốt của địch. Ở hướng đại đội 3, khi vượt được hàng rào dây thép gai, gặp hỏa lực địch bắn dữ dội chặn lại. Xạ thủ B40 nhận lệnh vượt lên tiêu diệt ổ đề kháng, rất tiếc đạn đi chệch. Đại đội trưởng Mai Văn Dung chồm lên ném 2 quả lựu đạn về phía khẩu đại liên địch rồi hô lớn:

- Tất cả hãy bình tĩnh, di chuyển, tiến lên!

Khẩu B40 khi nãy do Tiến điều khiển lao sang phải, bám vào 1 gò đất, phụt đạn. Một quầng lửa trùm lên khẩu đại liên. Tiến ngổm dậy, vuốt mồ hôi trên mặt, nhìn Đại đội trưởng và nở nụ cười. Tiếp theo cậu trườn lên, tiến sát chân lô cốt đang xối đạn về phía đại đội 2. Bằng 2 quả B40 chính xác, Tiến diệt gọn bọn địch trong lô cốt cùng 1 hỏa điểm kế bên, các chiến sĩ đại đội 2 nắm thời cơ nhanh chóng lao lên, khiến địch phải vứt súng chạy thoát thân, nhưng lại rơi vào hỏa lực của đại đội 3, không một tên sống sót. Trên đường vào khu vực tháp nước, đại đội 3 gặp sự chống trả rất quyết liệt của địch trong các hầm ngầm, lô cốt, thùng phuy, đại đội trưởng Mai Văn Dung trúng đạn pháo, hy sinh trong tư thế vươn mình ném lựu đạn.

9 giờ tối ngày 28 tháng 4, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 27 đã mở thông cửa phía Bắc thuộc chi khu Tân Uyên, Bình Cơ, đội hình bộ binh, cơ giới thọc sâu của Sư đoàn ầm ầm lao lên. Tôi và Đại đội trưởng xe tăng chia ra, mỗi người một xe dẫn đầu đội hình tiến công, thọc sâu, đi sau là pháo 85, 37 và 57 ly, tiếp đến là xe bọc thép, xe chở bộ binh, xe vận tải (binh chủng hợp thành đánh thọc sâu). Địch lợi dụng lô cốt, vật cản dồn hỏa lực bắn vào đội hình ta. Mỗi lần địch chặn, tôi ra lệnh dùng tăng và pháo điểm hỏa, tiếp đến là bộ binh đánh thẳng vào đội hình địch. Quân địch tan rã nhanh chóng, kéo nhau đầu hàng, chúng tôi chỉ giữ một số để chỉ đường, còn lại phóng thích cho chúng về nhà theo chính sách của Mặt trận giải phóng dân tộc. Trong số tù binh giữ lại, có một tổ máy thông tin, tôi lệnh cho chúng vẫn mở máy, giữ nguyên tần số liên lạc, và dặn khi cấp trên của chúng hỏi: “Lực lượng nào vậy”, thì trả lời: “Sư đoàn 5 về bảo vệ tuyến tử thủ Sài gòn”.

Với cách đánh gạt địch để lướt qua, chúng tôi tiếp tục đánh tan 2 đại đội Bảo an chốt vòng ngoài tuyến “tử thủ” Lái Thiêu, mặc dù bị máy bay địch oanh tạc vào đội hình, nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, nhưng khí thế tiến công không giảm sút, không ai muốn ở lại phía sau.

Chiều ngày 29 tháng 4, tôi nhận được điện của Tư lệnh Sư đoàn Lưu Bá Xảo: “Ngay bây giờ, nhiệm vụ chính của Trung đoàn 27 là làm tan rã lực lượng địch trên đường 13, đoạn chi khu Lái Thiêu, rồi thọc sâu vào Gò Vấp, việc còn lại có lực lượng khác giải quyết. Tôi trả lời: “Rõ. Tôi sẽ thực hiện đúng chỉ thị của Tư lệnh”.

Nhận mệnh lệnh, tôi hội ý chớp nhoáng với Thường trực Đảng ủy Trung đoàn: Tình hình rất khẩn trương. Trận mở cửa Lái Thiêu có ý nghĩa quyết định đến việc đánh chiếm Bộ tổng tham mưu quân ngụy ở Sài Gòn. Vì thế, bằng giá nào Trung đoàn 27 cũng phải thực hiện bằng được nhiệm vụ trên giao.

3 giờ sáng ngày 30 tháng 4, một phát pháo hiệu màu vàng bay vút lên không trung, các trận địa pháo nhất loạt nổ súng chi viện cho bộ binh mở cửa. Ngay từ những phút đầu, các chiến sĩ đại đội 11 dùng bộc phá ống phá tung các lớp kẽm gai, thùng phuy chặn đường. Tiếp đến là pháo B40, B41, xe tăng của đại đội 3 đồng loạt nhả đạn. Địch ở các chốt hoảng sợ bỏ công sự chạy tán loạn, chúng tôi vừa đánh vừa kêu gọi đầu hàng.

Ở hướng tiểu đoàn 5, pháo yểm trợ, bộ binh từ các hướng tấn công các mục tiêu đã định. Khi đánh đến Trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương, cờ trắng đầu hàng chờ sẵn trước cổng trung tâm. Quân địch xếp thành hàng dọc, dẫn đầu là đại tá Nguyễn Văn Hinh, chỉ huy trưởng. Lính đi sau tên nào cũng cầm một mảnh vải trắng cùng phù hiệu “Bạch xà tinh” giơ cao. Cùng lúc ấy, đại đội 5, đại đội 7 báo cáo đã đánh chiếm xong Lái Thiêu, phát triển lên khu nhà Quận trưởng. Tên Trung tá Quận trưởng quá sợ hãi rúc xuống hầm ngầm, cũng bị chiến sĩ ta tóm gọn cùng các sĩ quan Quận Lái Thiêu.

Lái Thiêu thất thủ, các đơn vị của địch ở bên ngoài không hề biết, vẫn có những đoàn xe tăng và bộ binh lao vào. Chúng tôi phải chia nhau, cắt nhỏ đội hình địch mà đánh. Trận ấy, chúng tôi diệt 30 xe tăng, thu 20 xe, dồn hàng binh vào một bãi đất trống, nói 10 chính sách của Mặt trận giải phóng, rồi cho chúng về nhà làm ăn. Quân ngụy nhảy lên reo hò: “Hoan hô quân giải phóng! Hoan hô quân giải phóng!”.

Mũi tiến công của Tiểu đoàn 6 vào phía bắc cầu Vĩnh Bình bị 30 xe tăng, thiết giáp địch xông ra phản kích. Đạn từ tăng, thiết giáp, lô cốt bắn ra dày đặc. Mũi thọc sâu Tiểu đoàn 6 chững lại. Trước tình hình ấy, tôi một mặt động viên tinh thần cho anh em vững vàng, một mặt chia 2 mũi tiến công, trong đó tôi dẫn đầu một mũi, đại đội trưởng dẫn một mũi, vừa đánh trực diện vừa chi viện cho nhau.

Dưới hỏa lực địch rất mạnh, chúng tôi vừa đánh vừa nhích từng mét. Trước tình hình khó khăn, tôi cho xe tách ra, vượt lên trước, tháo mũ, đứng trên đầu xe quan sát và chỉ thị mục tiêu. Anh em kêu lên: “Đề nghị thủ trưởng vào trong xe để bảo đảm an toàn”. Tôi bảo: “Vị trí của tôi là đứng ở đây mới quan sát địch, chỉ thị mục tiêu. Các đồng chí hãy tăng tốc lên!”. Vừa lúc đó một pháo tự hành 175 của địch từ nhánh rẽ lao ra phía cầu Vĩnh Bình. Đại đội trưởng hô to: “Xe 956, đạn xuyên một phát, bắn!”. Đạn vút đi, tôi nghe tiếng ục, khẩu “Vua chiến trường” rúc đầu vào bên đường. Thấy khẩu Vua chiến trường bị bắn hạ, địch phía sau hốt hoảng chững lại. Tôi cho đại đội 10 chia nhiều mũi giáp công. Nhưng đoạn đầu cầu địch bố trí rất nhiều chướng ngại vật, xe ta khó tiến lên. Bỗng đại đội trưởng Hoàng Thọ Mạc xách khẩu B40 nhảy ra khỏi xe, chạy về phía lô cốt. Quân địch bắn như vãi đạn về phía Hoàng Thọ Mạc, một viên trúng ngực anh, máu chảy loang áo. Mặc anh vẫn tiến lên, để bộ binh tiến sát phía sau anh. Bỗng một quả lựu đạn rơi ngay trước mặt. Mạc lao vào, đè lên người chiến sĩ B40, anh dũng hy sinh. Tôi chỉ thị hạ nòng 2 khẩu 37 ly, bắn thẳng vào đội hình địch đang chiếm giữ cầu, tạo cho các mũi tấn công hất địch ra khỏi công sự, chiếm được lô cốt đầu cầu, toàn bộ binh lính chốt giữ đầu cầu Vĩnh Bình bỏ súng, đầu hàng. Trung đoàn 27 hợp thành tiếp tục vượt cầu Vĩnh Bình, tiến đến bộ tư lệnh các binh chủng quân ngụy ở quận Gò Vấp. Trời Sài Gòn như vỡ ra bởi tiếng nổ rung chuyển của các loại đạn pháo, tiếng động cơ máy nổ của các loại xe, pháo.

9 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, mũi thọc sâu của Trung đoàn 27 đánh vào bộ tư lệnh thiết giáp -lực lượng mạnh nhất trong khu bộ tư lệnh các binh chủng ngụy. Trước cổng bộ tư lệnh, địch tổ chức trận địa phòng ngự, bằng tất cả các loại tăng, thiết giáp hiện đại nhất lúc bấy giờ. Chúng bắn như đổ đạn về phía ta. Sau quan sát, tôi quyết định cho tăng của ta, nã pháo chế áp trận địa địch, đồng thời cho bộ binh chia thành nhiều mũi, dùng B40, B41 luồn lách tiêu diệt từng cụm quân địch.

Không ngăn nổi sức tiến công của ta, địch đầu hàng. Lá cờ ba que trên nóc bộ tư lệnh thiết giáp ngụy hạ xuống, thay bằng cờ giải phóng lúc 11 giờ 30 phút.

Cũng vào thời điểm này, lá cờ chiến thắng của quân đội ta lần lượt kéo lên ở Dinh Độc Lập, bộ tổng tham mưu quân ngụy Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất và nhiều nơi khác trong thành phố Sài Gòn-Gia Định. Trận quyết chiến lược cuối cùng đã đại thắng! Đồng bào nô nức xuống đường vẫy cờ hoa đón chào quân giải phóng.

Trong giờ phút lịch sử thiêng liêng, chúng tôi nhớ đến Bác Hồ, nhớ hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 27 và các đơn vị bạn đã ngã xuống, càng đau xót hơn nghĩ đến các đồng đội vừa mới hôm qua, và vừa mới cách nay vài phút, vài giờ đã anh dũng hy sinh cho thắng lợi huy hoàng này!

 
 
 
 
Các tin mới hơn
Đất nước tôi(27/05/2025)
Các tin cũ hơn
Truyện ngắn "Hương tóc" của tác giả Đỗ Xuân Thu(27/05/2025)
Truyện ngắn "Nữ thần chiến thắng" của tác giả Văn Duy(26/05/2025)
Khai mạc Triển lãm 50 năm thành tựu văn học nghệ thuật sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975 - 30/4/2025(26/05/2025)
Thao thức với vừng trăng (Nhớ Trần Thế Lộc - bạn cùng vào chiến trường năm 1973- hy sinh tại Bình Chánh, Xuân Lộc, Đồng Nai đúng ngày 30/4/1975) (23/05/2025)
Ngọn gió tháng Tư(23/05/2025)
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na