Minh họa: Vũ Hữu Trạch
Truyện ngắn “Cuộc phưu lưu tuyệt vời của chú mèo thành Mossoul”, được cô viết năm 2018, trong một chuyến công tác tại Iraq. Dưới đây là trích đoạn lời tác giả:
“Thật khó tin đây là câu chuyện có thực. Vào năm 2015, một người mẹ và bốn cô con gái đã trốn khỏi Mossoul, thành phố thứ hai của Iraq, bị Deach xâm chiếm, chỉ mang theo duy nhất con mèo Angora. Khi đến đảo Lesbos, họ đã để lạc mất con mèo. Một ngày nọ, một thanh niên người Đức đã đến gõ cửa nhà họ ở thành phố Bergen, Na Uy, nơi họ tìm được ngôi nhà thứ hai, và mang trả cho họ con mèo mà anh tìm thấy trên đảo.
Tôi đã được mọi người kể cho nghe câu chuyện của họ trong thời gian làm việc tại Iraq. Tôi nghĩ ngay đến việc viết lên câu chuyện, để kể cho cả thế giới một cái nhìn khác về những người di cư trong đó có cả trẻ em (và cha mẹ họ), theo cách nhẹ nhàng và ấm áp, ít bi thảm hơn so với những gì chúng ta quen nghe. Tôi muốn dành câu chuyện này để tặng cho người dân Iraq, tặng cho lòng can đảm của họ, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, cho bạn bè, cho những con mèo ở khắp nơi trên thế giới…”.
Đây là câu chuyện về một chú mèo phi thường, và chú mèo ấy chính là tôi. Con mèo hạnh phúc nhất thành phố Mossoul, và cũng có thể là nhất thế giới! Vườn nhà tôi ở cũng là mảnh vườn đẹp nhất và cổ nhất khu phố, và ngôi nhà tôi ở, một lâu đài lý tưởng cho mèo. Những cây cam trĩu quả, được trồng từ đời cha của Samarkand, bà chủ của tôi, cho trái chín ngọt quanh năm. Còn tôi, hàng ngày chỉ việc ngồi rình dưới gốc cây cọ lũ chuột ra ăn vụng những trái chà là chín ngọt thơm.
Vâng, tôi đang sống ở thiên đường của mèo. Thỉnh thoảng mấy nàng mèo xinh đẹp có nghé qua thăm tôi. Những lúc đó, tôi thường bắt tặng các nàng những con cào cào còn tươi roi rói.
Tôi sống hạnh phúc với bà chủ và bốn cô con gái, Zora, Lamia, Fatima và Zineb. Tên của tôi là Habibi, trẻ nhất và được chiều chuộng nhất nhà (Habibi, trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “người yêu của tôi”). Bốn cô gái luôn tranh nhau âu yếm và chải lông cho tôi. Họ dùng chiếc lược có lông mềm thường để chải đầu cho trẻ nhỏ. Lần lượt mỗi tối trong tuần, tôi sẽ ngủ trong phòng mỗi cô một tối (nhưng tôi thích nhất vẫn là phòng của bà chủ).
Nhưng rồi, kẻ thù xâm chiếm thành phố, những người đàn ông mặc quân phục màu đen. Họ reo rắc nỗi kinh hoàng, cấm các cô gái trẻ đến trường, không được tự do ra khỏi nhà, và phải đeo tấm mạng đen dài che kín cả mắt, bộ đồ niqab. Một đêm, Samarkand quyết bỏ trốn cùng các con, không thể chần chừ lâu hơn được nữa:
- Chúng ta sẽ ra đi người không, không mang theo bất cứ thứ gì. Đồ đạc cồng kềnh sẽ thu hút sự chú ý.
- Còn Habibi thì sao?
- Tất nhiên chúng ta sẽ đưa nó đi cùng.
(Bạn thấy đấy, họ sẽ không bao giờ bỏ rơi tôi).
Samarkand lên kế hoạch chỉ trong vài ngày. Aziz, chồng của Samarkand đã mất cách đây ba năm (Tôi không biết ông chủ, Samarkand nhận nuôi tôi sau khi ông mất), vậy nên bà ấy đã quen với việc tự bảo vệ mình. Chúng tôi rời nhà ra đi vào giữa đêm, không nói gì với ai.
Tối hôm trước, Samarkand ra vườn vuốt ve từng gốc cây, bà ấy khóc. Đây là lần đầu tiên tôi thấy bà ấy khóc. Khi tôi nhìn thấy, tôi cũng buồn, và khóc theo, nhưng có ai thấy được nước mắt của một con mèo?
Đó cũng là lần đầu tiên tôi rời căn nhà và khu vườn của mình, lâu đài của tôi. Samarkand đặt tôi vào một cái giỏ và chúng tôi chạy trốn cùng Zora, Fatima, Lamia và Zined, bằng ô tô, với người lái xe tên là Muhsin, một người bạn tin cậy của gia đình:
- Tôi không giao phó con gái và con mèo của tôi cho bất cứ ai, anh là người duy nhất tôi tin tưởng- Samarkand nói.
Chúng tôi xuyên qua biên giới dưới ánh trăng, chúng tôi chạy dọc Thổ Nhĩ Kì, từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn. Chúng tôi chạy xuyên đêm, bốn cô gái coi cuộc chạy trốn như một trò chơi, một cuộc phưu lưu tuyệt vời! Dù đôi khi chúng tôi phải bỏ xe, đi bộ qua rừng, băng qua đồi. Chúng tôi lội qua sông, và Samarkand đặt tôi vào giỏ và đội lên đầu. Cái giỏ lắc lư thật mạnh, bình thường nếu ai làm thế với tôi, tôi sẽ gào toáng lên, nhưng trong hoàn cảnh như chúng tôi hiện nay, tôi chỉ có thể là nằm im trong lồng và chờ đợi.
Chúng tôi đã rất may mắn, chuyến đi diễn ra tốt đẹp. Thông thường, những chuyến đi như thế này rất nguy hiểm, nhưng chúng tôi được một ngôi sao tốt phù trợ. Ban đêm, mọi người ngủ trong lều, riêng tôi thì leo lên cây, Samarkand đã buộc tôi vào tay bà ấy bằng một sợi dây dài. “Đừng có đi quá xa, Habibi”, Samarkand thường xuyên nhắc nhở tôi. Mỗi lần như thế, tôi thường liếm nhẹ vào tay bà ấy và nói “Đừng lo, tôi không ngu ngốc đến thế, hãy cứ tin vào tôi”. Thỉnh thoảng, chúng tôi gặp rất nhiều người, nhưng chúng tôi luôn ở cùng nhau. Chưa một lần nào chúng tôi rời xa nhau. Samarkand từng là giáo viên, nên bà ấy trông chừng chúng tôi rất cẩn thận.
Một buổi sáng, chúng tôi đã đến bên bờ biển, gió thổi rất to, biển động mạnh, Samarkand ôm tôi trong tay và nói: “Habibi, đây là biển, chúng ta sẽ vượt biển để sang bờ bên kia, sang một hòn đảo tên là Lesbos”.
Bốn cô con gái đứng cạnh nhau, tay trong tay, không nói gì. Thật may mắn, các cô đều biết bơi, mùa hè năm ngoái Samarkand đã dậy bơi cho các con.
Một chiếc ca nô cập bến, chúng tôi leo lên, chiếc ca nô chật cứng người, nhưng bà chủ của tôi trông chừng rất cẩn thận để chúng tôi không lạc nhau, bà ấy buộc tay của chúng tôi lại với nhau bằng một sợi dây dù chắc. Còn tôi, bà ấy đặt tôi trong giỏ và để lên đùi.
Khi chúng tôi vừa ra đến giữa biển, ca nô chao đảo như sắp chìm. Mọi người đã nghĩ rằng giây phút cuối cùng đã đến, họ hét ầm ĩ, trừ chúng tôi. “Phải thật bình tĩnh”, Samarkand thường xuyên nhắc nhở chúng tôi. May mắn làm sao, mặt biển yên bình trở lại, con thuyền tiếp tục rẽ sóng vào bờ, cuối cùng chúng tôi cũng đặt chân lên đảo. Ở đó, Samarkand đặt chiếc giỏ của tôi vào một chỗ khuất, sau phiến đá trước khi ra giúp các con. Bốn cô gái tuy đã lớn, nhưng họ vẫn rất cần mẹ, nhất là cô út Zineb.
Chiếc giỏ bị lật nghiêng, cửa mở ra, tôi cũng tranh thủ bước ra ngoài để co duỗi chân nghỉ ngơi, tìm một con chuột tặng cho Samarkand và tiện thể thăm thú hòn đảo. Nhưng khi tôi quay trở lại với một con cá to, Samarkand và các con không còn ở đó nữa… Tôi đã gào thật to, tôi tìm họ khắp nơi trong vô vọng.
Tôi đi ngược trở lại bến cảng, nơi tôi tìm thấy con cá rơi ra từ lưới. Chờ trực sẵn trên bờ là hàng chục con mèo, chúng ngóng những chuyến tàu cập bến. Vậy là tôi đành ngồi im, tranh thủ phơi mình dưới trời nắng trong lúc chờ đợi Samarkand và các con… Bỗng đâu, một con mèo đực to xù bị chột một mắt (trông rất đáng sợ) phì vào mặt tôi:
- Mày làm gì ở đây tên kia? Bọn tao chưa gặp mặt mày bao giờ, mày từ đâu đến?
Tôi hất đầu ra phía biển.
- Ở bờ bên kia.
Tôi vừa dứt lời thì con mèo đực to xù đã tát thẳng vào mặt tôi:
- Cút ngay về bờ bên kia!
Biết không thể một mình chống lại tất cả, tôi bỏ đi. Cuối ngày, đảo chật những người với người, tất bật, vậy là tôi trốn vào rừng, leo lên ngọn cây chờ đêm xuống, lắng nghe tiếng cú mèo.
Sau này, tôi biết rằng Samarkand và các con đã đi tìm tôi khắp nơi. Vì không thấy tôi, họ ra đi trong đau đớn với một tổ chức nhân đạo. Hannah, một cô gái tóc vàng tốt bụng, đã hứa với Samarkand sẽ tìm tôi: “Tôi sẽ chăm sóc cho Habibi, tôi rất yêu mèo”. Cuối cùng khi cô ấy tìm thấy tôi vào một đêm, dưới một chiếc thuyền, gia đình tôi đã ở rất xa…
Tôi ở lại nhà của Hannah hơn một tháng. Tôi cảm thấy rất thỏa mái như ở nhà, tôi đi theo cô ấy suốt ngày, chơi đùa với bộ tóc vàng óng – những tia mặt trời – tôi tranh thủ ăn cho chán cá hồi đến muốn ói.
Hannah đã kể chuyện của tôi cho Thomas, một bác sĩ trẻ đang chuẩn bị quay lại Đức. Anh ấy đã đưa tôi đi cùng, và chúng tôi đã đến Berlin bằng xe tải.
Ngay khi trở về, Thomas đã tìm ra dấu vết của Lamia, cô ấy đã để lại tin nhắn bằng tiếng anh trên trang web của tổ chức nhân đạo. “Samarkand và các con đã đến định cư tại Na Uy, ở Bergen. Nơi những ngọn núi hướng ra biển”, Thomas vừa vuốt ve vừa nói với tôi: “Đừng lo lắng, Habibi, Samarkand và các con chắc chắn rất hạnh phúc ở đó! Nhân tiện, chúng ta sẽ đi thăm họ”.
Tám ngày sau, Thomas và tôi đáp máy bay sang Na Uy, tôi ngồi trong tay anh. Tất cả tiếp viên đều tranh thủ vuốt ve tôi. Sau đó, chúng tôi bắt taxi, và cuối cùng chúng tôi đến trước một cánh cửa màu đỏ, Thomas giơ tay lên gõ cửa. Hãy thử tưởng tượng ai ra mở cửa? Samarkand! Ngay lập tức, Thomas đặt tôi vào vòng tay của Samarkand, bà chủ của tôi.
“Habibi !Habibi!”, ngay khi nhìn thấy tôi Samarkand đã òa khóc nức nở, đến nỗi các cô gái con của bà chạy vội lại, và tất cả vừa vuốt ve tôi vừa khóc, đến độ lông tôi ướt mèm.
Tất nhiên họ mời Thomas ở lại ăn tối. Anh ấy đã kể cho họ nghe toàn bộ cuộc hành trình của tôi, tất cả những chuyện đã xảy ra với tôi từ khi chúng tôi lạc nhau ở Lesbos… Anh ấy ngủ lại qua đêm, trong phòng khách, và ngày hôm sau anh ấy quay về Đức, và hứa sẽ sớm quay trở lại gặp tôi (Ừm, tôi không ngu ngốc: tôi biết anh ấy đã thầm mến Lamia, và Lamia cũng có tình ý với anh ấy, cũng giống như tôi với đĩa thức ăn).
Buổi sáng đầu tiên tôi đi ra ngoài trong khu vườn trước cửa nhà. Không có cây cam, không có cây chà là, mọi thứ đều trắng muốt. Tôi ngập ngừng đặt chân lên tấm thảm trắng đến chói cả mắt, lạnh quá (buốt tê tái). Chắc vẻ mặt tôi lúc đó buồn cười lắm. Samarkand và bốn cô gái cười khúc khích. Tôi hơi tự ái, nhưng dù sao tôi cũng thích họ cười hơn là khóc.
- Đừng sợ, Habibi! Đây gọi là tuyết…
- Nó rất mềm, nhẹ và không làm bỏng chân.
“Nói thì dễ”, tôi lẩm bẩm. Tôi băng qua khu vườn… từ từ… Mặt trời đang chiếu lung linh, cảnh lúc đó đẹp tuyệt vời. Tôi thấy một thân cây màu đen bèn chạy lại cọ vuốt vào thân cây, sau đó tôi leo lên cây phủ đầy tuyết.
Một buổi sáng tỉnh dậy, tuyết đã tan, mùa xuân đến, trên bầu trời chao nghiêng cả hàng vạn con chim, còn tôi bắt được một con chuột đồng Na Uy! Tôi mang nó tặng cho Samarkand, nó vẫn còn sống, nên bà ấy đã thả nó ra.
Nếu bạn hỏi tôi thích nhất khu vườn nào, Mossoul hay Bergen? Thật khó để trả lời, cả hai đều có nét quyến rũ. Ở Mossoul, có cát, có chà là, có cam. Ở Bergen, có hoa, có táo và dâu rừng. Các cô gái đã quay lại trường học, nơi họ có thể thỏa mái mặc quần áo như họ muốn: váy, quần, áo phông đủ màu! Ở Bergen, những kẻ xâm lược áo đen chỉ còn lại trong ác mộng. Ở đây, các cô được tự do và hạnh phúc, các cô làm quen với rất nhiều bạn. Riêng Samarkand, cô ấy đã mở một quán ăn nhỏ với những món đặc sản được yêu thích của Iraq, như ngày xưa cô còn ở Mossoul! Cơm trộn hạt dẻ, rau nhồi, thịt hấp cà chua ngon tuyệt đỉnh. Quán ăn ngày nào cũng đông khách.
Còn tôi, tôi đã tìm được một công việc mà tôi yêu thích, vuốt ve và chào đón khách hàng. “Con mèo tuyệt vời”, họ thường khen tôi với Samarkand. Mỗi lần như thế, mắt Samarkand thường long lanh ngấn nước, và bà ấy kể với họ về cuộc hành trình tuyệt vời của tôi, từ Iraq tới Na Uy (Tất nhiên là không thể chi tiết bằng tôi). Trong lúc cô ấy kể chuyện, tôi sẽ thư thái cọ rửa lông.