
Sinh ra trong một gia đình truyền thống chữ nghĩa, hồi nhỏ Nguyễn Trọng Phu học tiểu học ở trường làng, sau đó học trung học ở trường huyện Thanh Hà. Tại ngôi trường này, ông được đọc những cuốn sách nói về cách mạng, về chủ nghĩa cộng sản, rồi giác ngộ tham gia cách mạng. Sau tháng Tám năm 1945, mới 17 tuổi ông đã là đội trưởng đội tuyên truyền xung phong của huyện Tứ Kỳ. Rồi nghe theo lời hiệu triệu toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch, năm 1947 ông xung phong vào quân đội, trở thành Trung đội trưởng trinh sát Trung đoàn 42 Quân khu 3. Sau hòa bình 1954, ông được điều động về làm giáo viên trường bồi dưỡng văn hóa của quân khu Ba, rồi Phòng Văn hoá - Văn nghệ Tổng cục Chính trị. Sau ông về công tác tại Cục Điện ảnh, Xí nghiệp phim truyện Việt Nam đến khi nghỉ hưu. Ông mất tại gia đình ngày 21-2-2008.
Mặc dù sau hòa bình 1954, khi được điều động về làm giáo viên trường bồi dưỡng văn hóa của quân khu Ba, Phù Thăng mới có điều kiện sáng tác, song các tác phẩm đầu tay của ông ngay lập tức gây tiếng vang. Truyện ngắn đầu tiên “Con những người du kích” đoạt giải Nhì của cuộc thi viết về “Những kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội” của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1959-1960. Năm 1960, trường ca Hoa vạn thọ của Phù Thăng đoạt giải B trong cuộc thi thơ của Tạp chí Văn nghệ.Với những kết quả trên văn đàn, ngòi bút của Phù Thăng như càng thăng hoa. Ngoài những truyện ngắn, truyện vừa và nhiều bài thơ in trên báo chí, Phù Thăng đã trình làng một loạt tác phẩm văn học đình đám. Tiểu thuyết Trận địa mới, NXB Quân đội Nhân dân in năm 1960. Tập truyện ngắn Chuyện kể cho mẹ nghe (Tuyển tập 10 truyện ngắn do NXB Văn học in năm 1960. Tập truyện vừa Thử lửa, NXB Quân đội Nhân dân in năm 1961. Tiểu thuyết Phá vây, NXB Quận đội Nhân dân in năm 1962. Truyện vừa Con nuôi trung đoàn, NXB Kim Đồng in năm 1965. Tiểu thuyết điện ảnh Quê nhà do NXB Văn hóa nghệ thuật xuất bản năm 1973. Hầu hết tác phẩm của Phù Thăng đều là những bản anh hùng ca cách mạng ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm, sự hy sinh thầm lặng của các chiến sĩ quân đội, du kích và nhân dân vùng châu thổ sông Hồng trong cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt.
Không chỉ ghi dấu ở mảng văn học, ở mảng điện ảnh ông để lại dấu ấn với những kịch bản phim: Quê nhà, Nguyễn Văn Trỗi, Biển lửa... Các phim này đều được tặng giải Bông sen Vàng, Bông sen Bạc trong các kỳ liên hoan phim Việt Nam từ lần thứ nhất đến lần thứ tư. Thời gian nghỉ hưu ở quê nhà, ông viết bản thảo cuốn tiểu thuyết Tấn công là phần tiếp theo của cuốn Phá vây. Mặc dù gặt hái nhiều thành tựu trong sáng tạo văn học nghệ thuật, song ông sống lặng thầm, luôn khiêm tốn, không phô trương và chưa bao giờ làm đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam. Theo nhà văn Đỗ Thị Hiền Hòa, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hải Dương, năm 1994 sau rất nhiều nỗ lực thuyết phục của bạn bè và lớp đàn em như Nguyễn Huy Khoát, Ngô Bá Thước, Nguyễn Ngọc San, Phù Thăng mới chịu gia nhập Hội văn học Nghệ thuật Hải Hưng. Với những cống hiến cho văn học của ông, năm 2012, nhà văn Phù Thăng đã được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Trong dòng chảy văn học nước nhà, nhà văn Phù Thăng xứng đáng là cây đại thu lặng thầm tỏa bóng. Văn nghệ Hải Dương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một chương của tác phẩm trường ca Hoa vạn tho của nhà văn Phù Thăng. Tác phẩm từng đoạt giải B trong cuộc thi thơ của Tạp chí Văn nghệ năm 1960.
Trích trường ca
HOA VẠN THỌ
Phù Thăng
Người đã khuất
Hai chiến sĩ vô danh
trên đồi A.1
Mang lịch sử vạn con người đã mất
Đẹp hơn nắng mặt trời
Trên đồi A
hoa vạn thọ vàng tươi
I
Như mọi người
tôi yêu mảnh đất Điện Biên lịch sử
Đã cho tôi và dân tộc tự hào.
Đất thiêng liêng ơi!
mà dòng thơ - sông nhỏ
Cũng tràn đầy chiến tích lớn lao.
Tôi bước lên đây, từng bậc gạch xốn xao
Mỗi bước chân đi, một thêm sức mạnh!
Đồi A
ba mươi sáu ngày đêm lửa cháy
Sắt thép nghìn cân trong từng tấc đất
Từng hạt cát như còn đẫm máu người
Những người đã khuất!
*
Cùng mọi người
nghiêm trang tôi cất bước
Lòng ngỡ ngàng câu hỏi:
Thật nơi đây
Chính quả đồi nhỏ bé
hiền lành
xanh biếc lá cây
Đã góp vào trang lịch sử
Một mặt trời chiến công rực rỡ
Một cánh tay đập vỡ mặt quân thù?
Ơi Đất mẹ hiền
dẫu tôi vẫn nhớ
Tự ngày xưa
mỗi ngọn cỏ đã trở thành lưỡi búa
Nếu kẻ thù nào dám đặt chân lên!
*
Như mọi người
tôi kính cẩn ngắm nhìn
Những dòng chữ ghi công trên đài liệt sĩ,
Tôi muốn hỏi
Màu trắng tinh khôi
phải mây trời buông rủ
Và màu đỏ dòng kia
từng nét chữ
Viết bằng máu bao nhiêu đồng chí?
Xung quanh tôi
Gió rì rào trong hàng cây phượng vĩ
Những chiếc đuôi xanh vẫy nắng
đón chào
Những tiếng thì thầm gợi cuộc sống
khi nao
Như tiếng hát của những người đã mất!
*
Cùng mọi người
lặng im, tôi dừng bước
Bên hai nấm mồ
không ghi tuổi ghi tên
Biển chỉ mấy dòng:
"... Tháng Tư, ngày mồng một
Hai chiến sĩ vô danh
Tiêu diệt chiếc xe tăng mười tám tấn..." (1)
Người đã khuất
là ai?
Các anh không lên tiếng
Im lặng triền miên
chẳng chịu trả lời!
Quanh mồ các anh
Hoa vạn thọ vàng tươi
những vì sao tỏa sáng
Kề bên mồ, chiếc xe tăng mười tám tấn
Nhãn hiệu U.S.A
Biển số I.C - chín mươi tư ngàn một trăm
năm mốt
Nòng súng gục cong, dây rừng
quấn quýt
Phủ dần lên vết tích chiến tranh...
Tất cả, tôi nghe
hoa tím
lá xanh
Chuyển vào trong tôi nhựa sống
Giục giã lời thơ đang đòi lên tiếng
Những lời thơ đang chắp cánh
thành dòng
Một bản trường ca về những chiến công
Về những con người
Chẳng biết quê hương
đầu rừng
ngọn sóng
Đã đến đây và nằm xuống nơi đây,
Những con người đã lặng lẽ hy sinh
Cái quý nhất trên đời là cuộc sống
Vì Đất mẹ hiền
Đã tất thảy hiến dâng!
Nguyên Dã