Có người mấy năm mất tích vừa trở về. Đó là cái tin đầu tiên sau chuyến đò dọc sông đêm ngược ngàn trở về của Lão Ấu trên bến Chạc chìu. Chuyện sẽ không có gì to tát đến nỗi gây bàng hoàng khắp cả làng Vân bên sông Dùng Giằng, vì lẽ đương nhiên, chuyện đi rừng, ngã núi, chuyện đá đè, đất lở, chuyện mất tích trong rừng sâu là chuyện như cơm bữa của cái làng mưu sinh bằng sông, bằng rừng trên vùng đất bán sơn địa này. Nhưng chuyện người trở về là Lim, chuyện của người ăn lan mất tích sáu năm trước trong rừng sâu lại là chuyện mà không ai có thể ngờ được nổi. Có lời đồn Lim bị ma cây bắt, dẫn dụ đi trong khi đang ngủ rồi mất hút trong rừng sâu, khi đám sơn tràng tỏa ra đi tìm, tá hỏa không thấy Lim đâu, chỉ thấy những vòng dây đỏ đánh dấu những gốc có lan rừng. Năm đó, làng được mùa lan nhiều chưa từng có.
Minh họa: Nguyễn Tiến Quân
Dãy núi phía tây tỉnh Hạ cao ngất ngây này lườn mỏng. Núi dài dọc theo lãnh thổ. Có khi đi hết cả một ngày trời từ bắc xuống nam cũng không hết dãy núi nhưng lại chỉ mất hơn buổi thôi lại có thể sang đến tận biên giới nước bạn. Tỉnh Hạ ít núi cao cheo leo hiểm trở, ngặt nỗi địa hình phân dị phức tạp lại nằm trong vành đai khí hậu ảnh hưởng của hai miền nam bắc, thành ra khí hậu khắc nghiệt đến không thể tả. Nhưng hoa lan thì đẹp tuyệt vời. Lan ở rừng này có độ bền, độ khỏe của loài cây sống trong môi trường khắc nghiệt, mà hương lan thì như đọng mật, quyện lẫn không tan xa nhưng đã đắm đuối thì chỉ có mê mệt với nó. Lan rừng tưởng trồng thì dễ nhưng lại khó vô cùng. Cái loài khắt khe có thể để cả tháng, trồng cũng dễ, chẳng cần phải kì công chăm sóc gì nhưng lại khó chiều lòng người thưởng thức khi không hiểu được thuộc tính của nó. Cứ như không vậy, sống thì sống nhưng cho hoa thì khó vô cùng. Như hữu duyên mới gặp được duyên vậy.
Truyền thống của làng Vân bao đời, đàn ông chỉ có một nghề đi theo hướng mặt trời lặn, còn phụ nữ đi theo hướng mặt trời mọc. Nghĩa là, quanh năm đàn ông thì lên rừng, đàn bà thì ra sông. Mùa khô khi những vỉa núi tai mèo, rêu quắt queo chết dưới cái nắng như kim đâm trên đỉnh tóc, đám đàn ông lại theo đường tiểu ngạch sang Lào cõng hàng lậu qua biên giới, có đám vào rừng theo đám khai thác gỗ thuê cho chủ đầu nậu, thì đàn bà lại xuống sông, xuống bãi lo lót mùa màng. Mùa mưa xuống không ai bảo ai, đám trai tráng trong làng dẫu đi làm ăn chốn rừng xa nào, cũng tề tựu ở làng đầy đủ, bắt đầu một chuyến ăn lan mới. Đám đàn bà lại củi lửa nấu nướng, sắp xếp lương thực dự phòng cho chồng, cho con trai họ chuẩn bị chuyến ăn lan đầu tiên. Cái tục muôn đời của làng Vân vẫn vậy.
Gió đông chướng dội từ trên đỉnh rừng về rét buốt buồn buột. Ông Chín Cửu ngồi khoanh tròn chân trên chiếu, quay mặt vào cửa rừng. Bàn thờ đặt dưới một gốc cây to trong vườn lan cộng đồng. Đó là khu vườn duy nhất dành để trồng lan. Những giò lan đẹp nhất, lạ nhất đầu tiên được đưa về đây làm vật thờ cúng cho một mùa ăn lan gặp nhiều may mắn. Ông Chín Cửu đặt mâm lễ vật cúng gồm rượu, hương, cơm nếp, giấy vàng, giấy đỏ, một con gà trống chân chì, giống gà rừng quý hiếm, lông đen, thịt đen, xương đen và một nồi nước thơm nấu từ các loại cây rừng ngào ngạt.
Buổi sáng, khi mặt trời vừa lấp ló trên đỉnh núi, ánh sáng chói lòa chưa chọc thủng được màn sương mờ đục còn bao phủ khắp núi rừng, những người dân đã tụ tập đông đủ. Một chiếc bàn thờ làm bằng thân cây trúc còn tươi, trên dán giấy bản, bốn tờ giấy dó màu đỏ, giữa dán giấy vàng dán ở bốn góc bàn thờ, cùng những tua giấy cắt treo bốn góc, tượng trưng cho trời đất bốn phương, tám hướng, đất đai, thần linh, tổ tiên… Ông Chín Cửu bắt đầu hành lễ.
Đầu tiên, ông Chín Cửu rửa tay vào chậu nước thơm rồi lên hương khấn vái trời đất, tổ tiên và thần rừng, sau đó cầm con gà đen hướng về phía núi, lầm rầm khấn. Tiếp đó, hai người thanh niên được cử giúp ông Chín Cửu cắt tiết gà, tiết của con gà được đặt lên bàn thờ cùng với túm lông cổ được dán lên tờ giấy bản nơi chính giữa bàn thờ. Sau khi luộc chín gà cùng xôi nếp, rượu gạo được bày lên bàn thờ, lễ cúng bắt đầu. Ông chắp tay đứng trước bàn thờ, những người tham gia cúng xếp hàng đứng phía sau, mỗi lần ông kêu tên trời đất, thần núi, thần rừng, tổ tiên… những người đứng sau ông quỳ rạp xuống đất lạy trời đất phù hộ cho người dân trong làng ai cũng được khỏe mạnh, phù hộ cho rừng cây tốt tươi, cho mùa ăn lan quanh năm không hết, giúp cho người dân no đủ, không đói nghèo… Đoạn ông Chín Cửu rót rượu ra những chiếc chén, sau đó đổ xuống đất, số còn lại ông chuyển cho Lim, từ tay Lim chén rượu được đi vòng quanh, mỗi người nhấp một tí lấy lộc. Có nghĩa là từ nay, Lim chính thức là thợ đầu trò. Cũng đúng thôi, khi ông Chín Cửu buông tay rồi, đầu trò ăn lan không ai khác mà chính Lim mới là người đứng ra gánh vác.
Nhiệm vụ của người đầu trò là người phải thông thuộc các nhánh rừng. Biết được điểm ăn lan và phải có trách nhiệm như là người dẫn đầu quyết định của cả nhóm về đường đi, cách thức ăn lan để lan không bị mất dấu, mùa sau khó kiếm. Lan ngày một hiếm bởi nhiều lẽ. Lẽ đốt rừng, phá rừng, lẽ người đi ăn lan ngày càng đông. Họ không phải chọn mùa như làng Lim mà họ đi quanh năm, lấy bất cứ loài nào họ gặp có thể bán ra tiền được là lấy. Làng Lim ăn lan như một cái tục. Đã đi ăn lan mùa này rồi, tuyệt không được cơ hội, không được kết hợp mang vác hàng hóa, dẫu người ta có thuê đắt đỏ cỡ nào cũng không thể mang theo được.
Lim rất có duyên ăn lan. Cả đám bạn kháo nhau rằng Lim có biệt tài ngửi thấy mùi hoa trong gió. Chỉ cần ngửi thôi là đã biết được vùng đó thường có lan gì. Lim không nói ra được những suy nghĩ của mình nhưng anh biết, đó là sự thật. Nơi nào thường có hoa lan, nơi đó như bừng sáng hơn, như có một thứ thần sắc tự nhiên mà hoa lan đem lại cho vạn vật xung quanh nó. Các loại lan tai trâu thì có lá rất to, phiến lá mỏng, mọc ở tầm trung. Lan trúc thì mong manh như những tấm rèm, thường mọc bên những bờ cây ven suối. Loại quý nhất có tên là nghinh xuân với lá dày và sóng to, nở đúng vào tết âm lịch lại thường mọc ở ngọn cây, lấy rất nguy hiểm.
Lim nhớ lại lần đầu theo Chín Cửu ăn lan, năm đó Lim 12 tuổi. Đêm nằm mắc võng qua gốc cây song song với ông, nghe mãi về chuyện ma cây lan mà cả đêm không thể nào ngủ được. Ông Chín Cửu rít một hơi thuốc lào dài sòng sọc rồi nhả khói, giọng ông vỡ như nước suối đập vào vách đá bục bục, ù ù "kiếm ăn là một cái nghề nhưng si mê nó lại là cái nghiệp, có khi còn là nghiệp chướng không dứt ra được. Như tao đây, đã bằng này tuổi rồi, tiền của hòm hòm đủ để ngồi mát xem lan rồi lại cứ mò mẫm trong rừng sâu hòng tìm giống mới. Chơi lan rồi mới thấy, giống như một đứa si tình, thằng đàn ông dẫu có trong tay năm bảy mối tình vẫn trăn trở suốt đời với một bóng người con gái mà mình không bao giờ có được. Mày thấy cây lan rừng vậy thôi nhưng thiêng liêng lắm đó. Nên không phải ai cũng làm nghề này được đâu, phải có duyên, có phận mày ạ. Ăn của rừng rưng rưng nước mắt là vậy”.
Đêm đó, trong một tích tắc chợp mắt thôi, tự nhiên Lim lại mơ thấy một giấc mơ lạ. Lim đã trông thấy khoảng sáng cuối chiều, ánh sáng vàng bầm lại thành những vòng tròn lấp lánh sáng, ngay trên mỏm đá này, cô gái cầm trên tay một khóm lan kỳ lạ: lan cành trắng như tuyết, không có lấy một chiếc lá, dáng khô khan như nhánh chết, mà hoa lại đen huyền. Màu đen của bông lan ấy láng mướt như nhung, lại lóng lánh sáng như bạc, nếu nhìn cánh hoa ngang mắt Lim chưa bao giờ thấy.
***
Tỉnh Hạ có đủ cả bốn mùa. Mùa mưa lũ lụt hoành hành, đất lở, núi lở, ngày nắng thì nẻ đất, nẻ nước, cá chết phơi bụng dưới cả khúc sông trơ lì đá sỏi. Thế người ta mới nói rằng, ai ở được ngót nghét hơn 20 năm ở xứ này mà không một lần nghĩ đến chuyện ra đi, thì kẻ đó dẫu có bị bỏ đói, bỏ khát trong rừng thiêng, nước độc ở mạn nào trên thế giới này vẫn có thể kiên gan chịu đựng được.
Lim đã ở tuốt trong rừng được hơn chừng đó. Năm nay đã 26 tuổi. Không cao. Dáng đi của Lim là sự pha tạp lẫn lộn giữa sự nhanh nhẹn của sóc và khỉ. Sự nhanh nhẹn và cái biệt tài ăn lan của Lim thì không ai bằng. Lẽ dĩ nhiên, ông Chín Cửu đã trao cái quyền đầu trò cho anh rồi thì có nghĩa là cả làng này không ai có thể theo kịp Lim được. Lim là đứa sinh ra ở rừng, sống trong rừng thế mà ông vẫn lo nhiều về Lim. Cái thằng để lại cho ông rất nhiều suy nghĩ khi nó còn quá trẻ và nó không hiểu được hết ý nghĩa của việc đi lấy lan rừng muôn đời của làng nó. Mỗi lần ông đều chỉ cho Lim cách nhận biết lan rừng, cách lấy, cách nâng niu một nhành lộc rừng nó phải như thế nào. Ăn lộc không phải bao giờ cũng dễ. Ăn mà không ăn. Ăn còn phải biết để dành, nâng niu những nụ mầm để mùa sau còn lấy lộc.
Hôm trước khi vào rừng, ông Chín Cửu ngồi uống rượu trong vườn lan. Giọng ông chùng trong sương buốt giá:
- Nghề này không phải là nghề để làm giàu. Nhưng nó cũng không để con phải chết đói, chết khát. Cuộc đời này cho và trả sòng phẳng lắm, nó không như đá ném xuống nước được đâu. Một lần tặc lưỡi là một lần ghi nợ với rừng con ạ.
Rồi ông Chín Cửu nói hoài, nói mãi, nói đến hết nửa đêm rồi, giọng ông cứ như thở. Đêm khuya sương nặng rồi người ta vẫn thấy hai thầy trò Lim còn đi lại trong vườn lan ngắm mãi không hề chán mắt.
***
Nụ dậy từ rất sớm. Mới sáng tinh mơ, Nụ đã dậy đỏ lửa rồi. Năm này, chính con bé Nụ là người chuẩn bị thức ăn cho Lim trước khi anh đi. Lim nằm quay mặt vào tường, mùi vôi vừa mới quét ấm áp kì lạ. Đã bao lâu rồi nằm đất, ngủ rừng, bây giờ cuộc sống mới đến với anh kì lạ quá, kì lạ một cách dễ thương khi anh nhận ra con bé Nụ ngày nào bây giờ sắp là một thiếu nữ xinh đẹp và mong manh như một nhành lan vậy, khiến chuyến đi sắp tới của anh trở nên quyến luyến vô cùng. Từ khi anh về ở với thầy, dù chưa chính thức nói ra, nhưng anh đã thấy mình càng phải có trách nhiệm hơn của một người anh trai đối với Nụ.
Đêm đó, khi uống say rồi, trong cơn liêng biêng ông mới nói hết những ẩn chứa trong lòng mà ông tưởng chừng như giữ riêng mình đến khi nhắm mắt. Duyên phận thế nào ông lại nói với Lim. Những lời gan ruột như rơi ra, chầm chậm như giọt sương đậu rồi tan nhanh vào cỏ. Lim không thể tin được rằng, bao lâu nay thầy anh vẫn lặng lẽ tìm kiếm dẫu đã biết Nụ là con nuôi của ông Chín Cửu. Ông nhặt được Nụ trong một lần đi rừng, nhưng việc Nụ không phải bị câm bẩm sinh thì đến giờ anh mới biết.
Bây giờ là đầu đông. Rừng cây mùa thay lá trút hàng loạt như mưa vàng tận ngõ rừng. Cây càng trút lá, trời càng thêm gió, thông thốc rít chạy theo những khe suối nhỏ có nơi đã trơ đá cuội ướt rượt. Lim kéo cao khóa áo khoác, đội thêm chiếc mũ lông mềm mới tinh, lúi húi soạn sửa đồ nghề đi săn lan rừng. Anh xếp dao quắm, dây thừng, đinh mười phân, búa, đèn pin, lương khô, gạo muối và một can rượu năm lít trong một chiếc gùi đeo lưng rồi xuống bếp.
Mâm cơm nóng hổi đã dọn xong rồi. Nụ bỏ thêm vào bếp dăm bục củi. Lửa lấp lánh bén lên, ấm sực. Lim lén nhìn Nụ. Nụ đẹp một cách kì lạ. Không sắc sảo, cũng không dịu dàng. Nụ trông dễ ưa, chợt nhìn thôi là đã thấy ấm lòng. Anh không muốn xa Nụ. Lim không diễn nổi hết ý nghĩ trong đầu, nhưng cảm giác khi thấy Nụ là một cảm giác nhẹ nhõm và tươi mới. Lim cảm giác quanh chỗ Nụ ngồi tự nhiên cũng sáng bừng, sinh động hẳn lên.
***
Sau lần đó, Lim vào rừng và không về cùng đám sơn tràng nữa.
Đám sơn tràng cũng nhạt dần với nghề ăn lan, tản mát vượt rừng với những gùi hàng lậu qua đường tiểu ngạch. Thi thoảng bị rượt đuổi, bị cướp hàng, thi thoảng có những tin đồn bay ra từ cửa rừng. Những người mất tích ở rừng đều không về nữa.
***
Người đầu tiên nghe lời đồn Lim trở về từ chính miệng ông già Ấu, lại cũng chính là Nụ. Lúc đó mờ tỏ. Sương còn bịn rịn trên sông, chưa kịp tan. Sóng chưa kịp thức, vỗ nhẹ bên mạn thuyền ông lão, nghe bục bục như cá quẫy. Ông lão thấy Nụ, chống con sào khựng lại hét ào:
- Thằng Lim nó về đó.
Nụ đánh rơi rổ rau đánh sầm xuống mặt nước. Mặt sông thức dậy vỡ tan thành những vòng tròn lớn dần. Nụ không đứng được nữa, ngồi thụp xuống rồi khóc. Cũng không ngồi được nữa. Nụ cắm cúi chạy. Nụ muốn kêu lên, muốn hét lên âm thanh vang dội trong lồng ngực mà không được. Hơi cứ nghẹn mãi theo bước chân Nụ chạy.
Ông Chín Cửu ở mé hiên nhà chống gậy bước ra vườn lan, thấy Nụ hớt hải chạy ngược về nhà từ đằng xa, thấy lòng không yên được. Mặt con bé tái mét, ấp úng khua tay, khua chân rối rít, loạn xạ cả lên. Mắt ông lão lúc đầu mở to ra, căng lên, sau đó mờ dần đi rồi ông khóc. Như không tin ở mắt mình nữa, ông quay lại Nụ nắm lấy hai vai con bé, hỏi dồn:
- Đúng không con?
Nụ gật đầu trong nước mắt rồi không hiểu sao bật lên thành tiếng:
- Lim! Anh Lim…
Người giật mình không phải là Nụ, không phải là ông Chín Cửu nữa mà là Lim khi anh nghe tiếng Nụ phát ra một cách rõ ràng như thế. Lim chạy lại ôm chầm lấy thầy, vòng tay anh siết chặt lấy những con người mà những năm tháng ở rừng, anh ngày đêm thương nhớ. Không ai biết Lim đã đi những đâu, chỉ có ông Chín Cửu ý chừng như hiểu, mắt ông lấp lánh cười khi Lim cầm tay ông rưng rưng nước mắt:
- Thầy! Thầy nhớ lời người đã nói với con không? Thầy đã nói với con rằng "Cuộc đời anh sinh ra là đã có duyên với rừng rồi. Trời đã trao cho anh cái khả năng nhận biết lan rừng như một món quà tặng đặc biệt. Nhưng thế thôi chưa đủ. Cũng giống như mọi nghề, năng khiếu là một cái may, nhưng làm sao để phát triển cái năng khiếu đó thành một thế mạnh thì còn phải trả giá nhiều lắm. Con có thể mất một năm, hai năm, thậm chí con có thể mất cả một đời mới có thể tri ngộ được. Kiếm lan thì dễ nhưng để loài này không bao giờ mất đi thì lại khó vô cùng".
- Ừ! Ông Chín Cửu rưng rưng nước mắt.
- Con biết thầy muốn tập hợp được tất cả các loại lan của vùng rừng Hạ này, nghiên cứu nó, phát triển nó để con cháu đời sau còn thấy được những vẻ đẹp tuyệt mỹ từ thiên nhiên, núi rừng ban tặng. Bởi giờ đây, người đi ăn lan ngày một nhiều, ta khai thác lan rừng theo kiểu tận diệt. Người ta không bận lòng suy nghĩ rồi sẽ có một ngày trên cánh rừng xanh bạt ngàn sẽ biến mất đi những sắc hoa lan rạng rỡ, nhiều loài hoa lan quý sẽ bị xóa sổ đang thấy rõ. Nghĩ thế, và con đi thầy ạ… Lim nói rồi quỳ sụp dưới chân ông Chín Cửu nói trong nước mắt - con đã về thầy ơi…
***
Từ đây lên đến đỉnh Rào Cọ không xa nhưng khó đi, phải mất gần một ngày trời mới đến được. Đỉnh đó cao lắm, quanh năm sương mù bao phủ rét mướt không thể tả. Mùa ăn lan là mùa mưa. Khi tiết trời khô hạn đến mức không thể nào chịu đựng nổi nữa, khi vào ba đợt gió Lào ràn rạt thổi mỗi ngày một giòn giã hơn thì đột nhiên ngắt hẳn. Bắt đầu là mưa. Mưa không biết từ đâu kéo về hập tấp, bỗ bã, càn quét từ đỉnh rừng xuống dưới chân núi. Rêu gặp nước nở ra trơn nhẫy. Đất thôi không có độ bám và măng rừng đau quặn bật mầm thì mùa lan đã tới. Đâu đó trên những thân cây cao, mưa đem nước hồi sinh trên những búi rễ tưởng chừng như đã khô queo phút chốc bật mầm. Có loài, nụ nở trước vàng rực mới lấm tấm những hạt mầm lá xanh chen chúc.