Quang cảnh thợ đấu nối nức ghép lồng lưới thả cá tại cơ sở sản xuất lưới Phạm Vĩnh Thành
(Hạ Bì, Yết Kiêu, Gia Lộc). Ảnh: P.V
"Ngoài ngõ sè sè người đánh nợ,
Trong nhà soàn soạt kẻ chắp gai
Người lớn, trẻ em đan tăm tắp
Chuyện trò rôm rả dưới hiên mai”…
Đó là những câu ca mô tả hình ảnh một gia đình đan lưới vào thời thịnh hành, phát triển nhất của làng Hạ Bì, xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương vào những năm 1930-1935.
Như chúng ta đều biết, đồng bằng sông Hồng không chỉ giàu có về lúa gạo và các loại cây ăn quả mà còn giàu có về thủy sản nước ngọt, nước lợ và cả nước mặn. Nguồn thủy sản ấy là một loại thức ăn giàu chất đạm, giữ vai trò quan trọng trong đời sống con người từ nguyên thủy cho đến nay và mãi mai sau. Nóng ẩm, mưa nhiều sông ngòi như mạng nhện, mùa mưa nước ngập mênh mông, phù du các nơi dồn về đông đặc là điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi cho các loài thủy sản phát triển. Hằng ngày thủy triều lên xuống mở rộng không gian sinh tồn cho thủy sản và tạo điều kiện cho con người đánh bắt chúng dễ dàng.
Quá trình tồn tại và phát triển dân tộc ta đã sáng tạo ra nhiều công cụ đánh bắt cá từ thô sơ đến tinh vi như: Nơm, dậm, te, xiếc, đăng, lờ, đó, lưới, vó, chài, đáy,... và các hình thức câu khác. Những công cụ này có mặt ở hầu khắp các làng xã và giữ vai trò không nhỏ trong đời sống vật chất và tinh thần hàng ngày, bởi vì đánh bắt cá không chỉ là một hình thức kiếm ăn mà còn là một thú vui, một cách giải trí bổ ích, hào hứng và sảng khoái của cư dân các làng xã. Trong các di chỉ khảo cổ học từ thiên niên kỷ II trước công nguyên đã tìm thấy các loại lưỡi câu đồng, các loại chì bằng gốm cũng đã xuất hiện từ sơ kỳ thời đại đồ sắt trên đất nước ta, chứng tỏ nghề đánh bắt cá đã khá phát triển từ trước công nguyên. Bước sang thời đại phong kiến, những cụm cư dân chuyên sống bằng nghề chài lưới qui tụ thành từng làng trên các triền sông nhất định được sử cũ gọi là các phường thủy cơ hay vạn chài, dân gian thì gọi là hà hay đáy. Một trong những làng chài lâu đời và nổi tiếng Hồng Lộ là Hạ Bì, tục gọi là làng Quát thuộc huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng. Thời Pháp thuộc đổi thành thôn Hạ Bì, thuộc tổng Phương Duy, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Nay Hạ Bì là một thôn thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Từ nghề sông nước mà Hạ Bì đã cung cấp cho quân đội những thanh niên cường tráng, giỏi bơi lặn, điển hình là Phạm Hữu Thế tức Yết Kiêu, người cận vệ trung thành, dũng cảm, tài năng của Trần Hưng Đạo, nay trở thành vị thành hoàng tôn kính của nhân dân trong xã mang tên ông; được nhân dân tôn vinh là ông Tổ ngành bơi lặn nước ta và biểu tượng của môn thể thao bơi lội của dân tộc.
Nghề chài lưới ở Hạ Bì có từ bao giờ, những người làm nghề đầu tiên là ai? Đến nay chưa thấy tài liệu nào ghi chép lại. Có điều chắc chắn rằng, đến thế kỷ XIII nghề chài lưới ở Hạ Bì đã phát triển mạnh... Từ Hạ Bì bên sông Đò Đáy do dân chài phát triển quá đông nên ngư dân phải đi khắp các dòng sông miền tả ngạn sông Hồng để đánh bắt cá; đậu thuyền, phơi thuyền ở những đoạn sông nhất định gọi là vạn chài hay hà đáy. Đặc biệt là từ khi Yết Kiêu có công với nước, được tôn làm phúc thần của làng, nhà nước phong kiến có ân tứ đặc biệt cho dân Hạ Bì: Khi đoàn thuyền đánh cá đậu ở đâu thì mỗi người được 3 thước đất (72m2) bên bờ để dựng nhà, phơi chài lưới. Từ những đoàn thuyền lênh đênh sông nước dần dần cố định lại từng làng ven sông thành những vạn chài, theo cách gọi của người Hạ Bì là các hà đáy. Lịch sử còn ghi lại vào thời Trần, cư dân Hạ Bì đi đánh cá khắp nơi. Mỗi khi lên bờ phơi lưới, nghỉ ngơi, mua bán đều bị bọn hào lý ở địa phương sách nhiễu.
Từ một hà gốc Hạ Bì thời Trần đến đầu thế kỷ XX đã hình thành nên 9 hà ở các địa phương khác nhau: Làng Quát gọi Hà Cả; Hà Lạc Thượng thuộc các xã Đức Xương, Thống Kênh, Phạm Trấn huyện Tứ Lộc (nay thuộc Gia Lộc); Hà Trung (khu vực Đò Bía, Tứ Kỳ); Hà Vĩnh (khu vực cầu Ràm (Ninh Giang); Hà Kênh Trang (Vĩnh Bảo, Hải Phòng); Hàn Tăng Thịnh (Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng); Hà An Bài (Cầu Nghìn, Quỳnh Phụ, Thái Bình); Hà Kênh Tre thuộc Thanh Bình, thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương); Hà Tán Võng - Hưng Long xã Trùng Khánh huyện Tứ Lộc (nay thuộc Gia Lộc). Về sau một số hà tách nhỏ thêm một số hà nữa như An Vệ, Đáy Hống, Đáy Gồm, Song Động...
Ngư dân Hạ Bì đi đến đâu cư ngụ ngay tại đó, họ phiêu bạt quanh năm, ở làng tuy không có nhà cửa, mọi sinh hoạt đều ở trên thuyền. Tuy vậy dân số họ vẫn thuộc về làng. Hàng năm vào các dịp lễ tết hoặc giỗ tổ tiên họ vẫn về làng. Khi có người mất đều mang thi hài về làng làm ma và chôn cất chu đáo. Mặc dù hàng năm họ về làng chỉ 1-2 lần nhưng ngôi thứ, luật lệ vẫn phải theo làng.
Hạ Bì có ngôi đền Quát thờ danh tướng Yết Kiêu thời Trần. Ông tên thật là Phạm Hữu Thế, sinh ra trong một gia đình ngư dân nghèo, ông có tài “nhập thủy như bình địa”. Sau hai lần cùng Trần Hưng Đạo đánh thắng giặc Nguyên, ông được triều đình nhà Trần phong chức “Yết Kiêu hầu đệ nhất Đô soái thủy quân” được vua ban ân sủng, ông chỉ xin vua xuống chiếu ban cho mỗi hộ ngư dân 3 thước đất để phơi chài lưới bất kể hộ ngư dân đó đi đến đâu. Từ thời Gia Long trở về trước, mỗi hộ được cấp sổ “Bìa xanh” đi đến đâu chỉ cần trình sổ là chính quyền sở tại phải cấp đất. Do có công lao với dân, với nước nên khi ông mất, nhân dân địa phương đã lập đền thờ tôn vinh là vị thành hoàng của làng, bốn mùa hương khói. Hiện nay tại đền Quát còn tấm bia đá, trong đó có ghi sự kiện này.
Để nhớ nguồn gốc của mình, đồng thời tưởng nhớ đến người có công lao với nghề. cứ 5 năm một lần thôn Hạ Bì lại mở hội lớn, tất cả các hà đều trở về Hạ Bì mở hội tế lễ Yết Kiêu và thi bơi trải. Hội bắt đầu từ ngày 14 đến ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Sau khi tổ chức rước tượng Yết Kiêu từ đền Quát về đình làng thờ hai ngày, rồi rước trở lại cửa đền, bỏ long đình, đặt tượng trên một bệ cao sát bờ sông để “Ngài” duyệt con cháu luyện tập quân sự. Mỗi hà đóng một thuyền trải tốt, chọn trai đinh tráng kiện nhất, mình trần khố đỏ đua tài bơi trải, biểu dương lực lượng trước bàn dân thiên hạ và cũng là một hình thức ôn tập thủy chiến, nguyện mãi xứng đáng với truyền thống của tổ tiên, của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Tục tập này vẫn còn và được phát huy dưới những hình thức mới.
Chài lưới Hạ Bì được xác định phát triển rực rỡ vào những năm 1930-1935, cả làng vừa hành nghề đánh bắt, vừa đan chài lưới để dùng và bán cho các nơi. Từ nghề đánh bắt cá bằng chài lưới, tất yếu kéo theo nghề đan chài lưới. Trừ số người đi đánh bắt cá, số còn lại ở làng đều đan lưới vó. Trước đây ngay từ sáng sớm cả làng đã vang lên tiếng xa quay sợi. Sợi chăng ngang dọc các ngả đường, khách muốn đi lại qua đường cũng khó khăn.
Nguyên liệu đan lưới Hạ Bì trước đây chủ yếu là cây gai, loại cây mọc ven các dòng sông, sau đó nguồn đay, gai được mua từ Hải Phòng, Hưng Yên... Gai, đay mua về còn cả vỏ, đem ngâm nước từ 2 - 3 ngày, sau đó vớt lên, cạo sạch vỏ, tước nhỏ, chắp thành sợi, dùng xa xe lại. Sợi xe to nhỏ tuỳ theo mục đích sử dụng. Xe sợi gai phải chọn lúc râm mát hay nắng nhẹ, nếu xe vào ngày khô hanh hay nắng to sợi khô cứng khó xe. Các loại ngư cụ của Hạ Bì thường đan là: Đáy, chài, lưới túi, lưới đồng, lưới mè,... sau có thêm vó bè học ở nơi khác về. Khoảng những năm 1955-1960 một số người đi học thêm nghề đan lưới xiếc. Độ lớn của các ngư cụ cũng rất khác nhau và theo truyền thống thường đo bằng sải (sải tay), mỗi sải xấp xỉ 1,6m. Chẳng hạn như: Vó tay, giềng rộng sải rưỡi đến sải vực (2,4 – 2,5 m). Vó bè rộng từ 4-5 sải rưỡi. Lưới úp rộng 9 sải, dài 27 sải, chài bán kính từ 3-5 sải,... Nghề đan lưới vó Hạ Bì tuy không nặng nhọc nhưng đòi hỏi sự khéo léo, kiên trì và đôi chút kinh nghiệm. Chẳng hạn như khi đan vó, người thợ phải biết mở hoặc chiết mắt ở những khoang nhất định để vó chuông chắn, khi cất mới ăn cá, nếu để thịt vó chúm, hẹp, rốn vòi voi, khi cất dễ động cá. Hay cùng một loại xiếc nhưng xiếc dùng để bắt ếch, bắt tôm... lại có cách đan khác nhau. Đối với lưới cũng vậy, gồm nhiều loại, độ lớn của mặt phụ thuộc vào yêu cầu người đặt hàng và thị trường, riêng lưới túi thì phần túi mau hơn một chút; lưới ba màn thì mành giữa mau hơn mành bên; lưới bén, lưới quét đều có phao ở giềng trên và chì ở giềng dưới. Phao trước đây làm bằng gỗ xoan hay vàng tâm là những thứ gỗ nhẹ, nổi, ít ngấm nước,... Về phương pháp đan chài lưới mỗi địa phương có những đặc điểm riêng nhưng thông dụng nhất vẫn là đan theo kiểu luồn trôn quang. Trong nghề đan lưới, vó Hạ Bì cũng xuất hiện nhiều thợ giỏi như các ông Điềm, Phòng đan đáy; ông Đề đan xiếc, ông Chữ, ông Mục đan lưới, vó,...
So với các nghề khác thì nghề chài lưới vất vả hơn, thường ngư dân phải thức khuya dậy sớm để đánh bắt cá và đi chợ bán cá. Vào mùa hè đỡ vất vả, vào mùa đông mưa phùn gió bấc nhiều khi người ngư dân phải ngâm mình hàng giờ dưới sông chịu cái rét cắt da cắt thịt. Tuy vất vả nhưng đời sống của ngư dân có nét vui riêng.
Nghề chài lưới Hạ Bì ra đời sớm, phát triển rực rỡ vào đầu thế kỷ XX và bắt đầu giảm sau ngày hòa bình lập lại (1954), nguyên nhân thì nhiều nhưng chủ yếu là do đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp nên ruộng đồng được cải tạo, hệ thống đê điều phát triển, nguồn cá tự nhiên ngày càng cạn dần. Hơn nữa sau cải cách ruộng đất, các hộ nông dân đều có ruộng sản xuất, một số hộ chuyển cả gia đình sang làm nghề nông nên nghề chài lưới thu hẹp lại. Đặc biệt là từ những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, lưới nilon ra đời đã cạnh tranh gay gắt với lưới bằng gai của Hạ Bì; xuất hiện nhiều loại lưới “diệt chủng” mắt lưới nhỏ chỉ 1-2 li có thể bắt từ con cá lớn nhất đến những con cá vừa sinh trưởng, lượng cá tự nhiên ít dần nên nhiều gia đình đã chuyển hẳn sang làm nghề khác. Về Hạ Bì hôm nay, chúng ta không còn được nghe thấy tiếng xa quay sợi hay những sợi đay, gai chăng ngang dọc đường đi, phần lớn các hộ trong làng chuyển sang làm nông nghiệp và nhiều nghề khác nhau. Hiện nay thôn Hạ Bì có 1.718 nhân khẩu với 545 hộ dân, nhưng chỉ còn 14 hộ làm nghề đan lưới và đánh bắt cá nhỏ lẻ (chủ yếu là đan lưới để bán). Tiêu biểu có gia đình ông Phạm Vĩnh Thành là cơ sở sản xuất lớn nhất của làng với khoảng từ 10-20 nhân công (đều là người trong làng), hay gia đình các ông Phạm Hữu Lấn, Phạm Đắc Việt… Ngoài đan lưới, vó các hộ còn sản xuất một số mặt hàng khác như túi đựng quà, lưới bóng chuyền, bóng đá... đáp ứng nhu cầu hiện nay của thị trường.
Xứ Đông xưa - Hải Dương nay là một vùng đất có bề dày lịch sử, nơi hội tụ nét tinh hoa văn hóa của nhiều nghề cổ truyền với những sản phẩm và nghệ nhân nổi tiếng. Đây cũng là vùng đất sớm nảy sinh và tiếp nhận nhiều ngành nghề có giá trị kinh tế và văn hóa cao, hình thành nên những làng chuyên sâu từng nghề, tạo ra những mặt hàng độc đáo và nổi tiếng không chỉ thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của địa phương mà còn cung cấp cho kinh thành mặt hàng cao cấp và thợ lành nghề trên nhiều lĩnh vực. Trong lịch sử cũng như hiện nay, những làng chuyên sản xuất ngư cụ đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc khai thác nguồn thủy sản phong phú của địa phương, phục vụ đắc lực cho đời sống hàng ngày của nhân dân và đó cũng là một biểu hiện văn minh của dân tộc trong khu vực. Với những ý nghĩa lịch sử, văn hóa mang trong mình, nghề chài lưới Hạ Bì vẫn được xếp là một trong hơn 30 nghề cổ truyền của tỉnh Hải Dương, được nghiên cứu, sưu tầm lưu giữ và trưng bày tuyên truyền, giới thiệu tại Bảo tàng tỉnh. Hiện nay, Chài lưới Hạ Bì tuy không còn thịnh hành, phát triển nhưng với vai trò vị trí và những giá trị lịch sử, văn hóa mang trong mình xứng đáng để chúng ta trân trọng, giữ gìn; lấy đó làm điểm tựa để nghiên cứu, phát minh sáng tạo ra những ngành nghề mới góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội địa phương trong giai đoạn hiện nay.