Tôi không có duyên nợ gì với thị trấn này nếu như không có lần tôi tình cờ nhìn thấy Hàn ở đây, ngay trong tầm nhìn qua ô cửa kính ô tô đang đóng kín trong một mùa mưa rét. Là người đàn ông đang đứng đó. Dáng người khắc khổ. Khuôn mặt chỉ có một ánh nhìn. Một hốc mắt trơ khắc vô hồn kéo khuôn mặt của anh rúm lại dưới vành mũ cối che gần hết khuôn mặt. Hàn đang bê hàng, từng thùng hàng chở đồ hải sản bốc mùi tanh lờm lợm. Tự nhiên lúc đó tôi lặng im. Trái tim tôi như đông cứng khi nhận ra người mà mỗi tháng vào ngày mồng một hay ngày rằm mình đều xướng tên cầu siêu trong ngôi chùa gần nhà giờ đang ở trước mặt mình nhưng không thể há miệng lên được. Cảm giác trôi tuột, kéo tôi theo những năm tháng xa xôi của những ngày trong rừng.
***
Đúng là tôi đã lạc thật rồi. Suốt hai ngày lang thang trong rừng một mình, tôi mới đinh ninh là mình đã bị bỏ lại. Trời lấp xấp mưa. Tôi ngồi trong một cái hang đá rộng rênh một mình. Cảm giác vắng vẻ xộc lên từ mũi. Mùi cỏ cháy, mùi khét của một trận quần đảo kinh hoàng vẫn còn vương lại trên những thân cây cháy. Tôi cố hình dung mình đang ở đâu, nhưng chịu. Đơn vị tôi nhận lệnh hành quân trong đêm từ Bình Định lên Gia Lai từ tờ mờ tối. Ngang qua thị xã An Khê đã gần 9 giờ rưỡi tối rồi, khi bị đánh úp chắc đang ở gần đèo Mang Yang. Tôi ngất đi sau một cú tung người rồi tỉnh dậy dưới một cái hố sâu bên trên um tùm một bụi ô rô lớn. Có thể thế mà đồng đội không tìm thấy tôi.
Vậy mà đã ba đêm rồi, ba đêm trải qua một cách căng thẳng. Tôi không dám ngủ. Cũng có thể trong một phút giây nào đó, tôi đã chợp mắt một lúc nhưng thật sâu, khiến tôi không có cảm giác đói ngủ như mọi lần ở cùng đồng đội. Giữa rừng già, những nấm mộ non vừa mới đắp, đất đỏ tươi như ngấy sốt. Giữa thinh không bao la, yên ắng đến nỗi tôi cảm thấy như mình có thể nghe được cả tiếng nấm cựa đất làm tôi bần thần. Bao nhiêu ý nghĩ dồn lại, đặc quánh, hỗn độn không biết từ đâu dồn dập ùa về khiến tôi nghĩ đây có thể là địa ngục và tôi đã chết bởi quanh đây không hề có người.
Tôi nhìn quanh. Tự nhiên tôi thèm tiếng súng, thèm mùi khói bom. Thèm cả tiếng máy bay dàn hàng ngang cùng lúc phụt rốc- két, cùng lúc xả đại liên như mưa xuống thung lũng... để biết rằng thế giới này là thực và tôi đang sống chứ không phải là đã chết. Nhưng tất cả cứ mơ mơ màng trong những cơn đói và rét run người của tôi.
Một ngày nữa qua đi. Tôi đã bắt đầu không hình dung được là mình đang ở nơi đâu trên cái bản đồ tác chiến nằm trong túi áo ngực bê bết máu đỏ đã khắm khú mùi. Tôi chuồi chân xuống suối. Con suối không tên chảy quanh co như một con lạch nhỏ lẫn trong những tảng đá to nằm sít cạnh nhau rồi xoãi ra một cái bãi mênh mông rộng lổn nhổn đá cuội. Tôi ngồi trên một mỏm đá nhìn lên hun hút cánh rừng tứ phía như nhìn từ dưới đáy giếng. Tôi từ từ ngồi xuống. Nước liếm dần cơ thể tôi từng tí một. Máu và đất chảy xuống những gộp đá. Tôi thấy mình như bay lên, thanh thoát và nhẹ nhàng giống như mình đang nằm trên cánh đồng quê mình mùa vụ gặt. Mùi rơm, mùi đất ngai ngái và mùi phân bò làm tôi nôn nao nhớ nhà. Giá như giờ được ở quê. Tôi sẽ lại chạy theo sau thằng Tũn đang nằm rạp trên lưng con trâu cồ, hai chân nó thúc mạnh vào mạng sườn phi trâu hùng hục trên đồng cỏ. Những lúc đó, nó vừa phi trâu vừa hét “Cha dặn chị bị tim không cho phi trâu đấy!”.
Cha có bao giờ nghĩ đứa con gái yếu ớt của người rồi cũng có ngày ra trận không nhỉ? Tôi nghĩ thế rồi phì cười. Tôi hình dung thấy khuôn mặt cha khi nghe chuyến lạc rừng ly kỳ của tôi sẽ nắm tay tôi vội vàng như sợ tôi vụt mất như sương khói. Tôi lục lại trong cái túi đeo nhỏ bên người lấy chiếc áo của cha ra mặc. Nhớ quá, chiếc áo còn vương mùi mồ hôi cha. Cái thứ mồ hôi quen thuộc ngai ngái như mùi dầu lẫn mùi mồ hôi lấm tấm trên lưng trâu óng mượt.
Đang yên lặng, chợt nghe có tiếng thở mạnh, tôi giật mình bật dậy, tay lăm lăm khẩu súng. Trước mặt tôi, một khối to lừng lững lết lại rồi đổ ập xuống. Bụi lửa bay bật tán loạn. Tôi không còn sợ hãi. Cái khối to lừng lững nằm bất động đó nói với tôi rằng: Tôi đã sống. Nghĩa là đơn vị tôi đã và đang ở quanh đây, rồi họ sẽ tìm ra tôi giữa rừng già thăm thẳm này.
Tôi kéo anh lính sát lại đống lửa. Đổ nước trong cái hăng-gô ra lau rửa khắp mặt cho anh. Tôi không hỏi anh, mà có hỏi anh cũng không trả lời được. Cứ thế tôi im lặng, tiếng thở của anh dồn dập, ngắt quãng.
Ánh sáng chói lòa chếch chếch từ cửa hang lọt qua chỗ tôi nằm. Anh lính nằm cạnh khẽ cựa mình bật lên những tiếng rên rỉ:
- Nước... nước...
Nghe tiếng anh tôi òa khóc. Mừng như bắt được vàng. Bởi tôi biết, ngay lúc này đây tôi đã không còn cô độc nữa.
Tôi đã gặp Hàn như vậy trong một khu rừng già dài theo trục đường 19. Mùa mưa đã chớm rồi trên những cánh rừng trước đây còn trống hơ trống hoác bây giờ dịu lại nhanh chóng phủ một màu xanh sậm. Với tôi, màu xanh đó có ý nghĩa lớn lao vô cùng. Nó nói với tôi rằng sự sống sẽ không bao giờ bị mất đi cả nếu con người cùng nghĩ về nó với niềm tin mãnh liệt nhất.
Ba ngày bị lạc trong rừng, Hàn đã hồi tỉnh dù vết thương ở chân vẫn còn ứa máu. Hàn nói đơn vị của anh chỉ qua ngọn núi này là đến, phải về đó trước khi tôi có thể liên lạc để trở lại với đơn vị. Đêm tối, hai chúng tôi dìu nhau đi. Trăng non vừa lên trên đỉnh rừng đầy sương trắng đùng đục. Chúng tôi đi mãi, men theo ánh trăng mà đi qua những hốc rừng tối thui chờn chợn. Phía ngang triền dốc, khi tưởng chừng như sắp hụt hơi, chúng tôi đã nhận ra những dãy lán có quầng sáng hắt ra mùi khói thơm như nhựa thông và mùi nghe chừng như mùi khoai sắn nướng.
Hàn úp hai tay lên làm loa hú gọi. Tiếng bước chân thậm thịch chạy ra. Chợt có tiếng hỏi:
- Bệnh nhân ở đâu về mà muộn thế anh Hàn?
- Tôi là bệnh nhân đây, còn cô kia giúp đưa tôi về đây.
Mọi người đỡ Hàn vào lán thương binh sơ cứu còn tôi một mình ra suối rửa mặt. Tự nhiên tôi thấy vui. Bao nhiêu âm thanh như sống động hẳn lên. Nó rạo rực chạy khắp cơ thể tôi nhanh và nhẹ nhàng như gió khiến tôi không còn cảm thấy mệt mỏi nữa. Chuồi chân xuống suối mát lạnh, tôi có cảm tưởng như tôi là cỏ lau và gió cứ phất trần như thế, nâng tôi lên, hạ tôi xuống dập dềnh. Tôi giống như người được hồi sinh thêm lần nữa và muốn hét lên, hú lên để cho mọi người đều biết.
***
Mùa thu ở rừng rất đẹp. Mọi thứ nhìn như tươi hơn. Lá xanh như xanh hơn. Lá vàng như vàng hơn và những bông lau rừng như rực rỡ hơn giữa cái nắng thanh tao nhè nhẹ của mùa thu dìu dịu. Tôi ngồi bên suối. Con suối trong veo đấy nước chảy lững lờ. Đâu đó có tiếng chim thi thoảng cất lên ríu rít ồn ào rồi lại yên ắng. Tôi lắng nghe âm thanh của rừng. Âm thanh của sự sống chuyển mình một cách hồ hởi và sáng rõ. Mặc cho những trận mưa bom vừa cày xới và những vết thương sâu hoác giữa thân rừng chưa kịp xí xóa hồi đêm, chim vẫn hót, bướm vẫn tìm hoa và ong vẫn tìm đường lấy mật.
Hàn ngồi xuống bên cạnh tôi. Anh đưa cho tôi một bắp ngô non vừa bung sữa được nướng thơm lừng.
- Mai em đi rồi.
- Em biết bài này không - Rồi anh hát - “Buồn không hỡi người đã đi rồi. Tìm đâu những ngày vui êm ấm. Người đi theo năm tháng không cùng. Thương mắt em hay buồn. Nhìn mùa thu chết bên song”.
Tôi giật mình nghe anh hát bài hát ấy. Bài hát trong một lần qua nội thành tôi đã được nghe qua. Nhưng giọng hát anh, giọng hát trầm và buồn đã làm tôi bối rối vào lúc ấy khi anh nói anh chỉ hát bài đó cho tôi nghe thôi vì ngày mai tôi đã xa anh rồi.
Đêm đó. Một đêm trăng non. Chúng tôi đã hẹn thề với nhau sẽ chờ độc lập. Tôi không có kỷ vật gì cho anh ngoài chiếc lược được làm từ mảnh bom mà một đồng đội đã làm để gửi tặng người yêu ở nhà nhưng không kịp. Trước lúc hy sinh, anh chỉ kịp tặng lại tôi chiếc lược khắc tên hai người như một người làm chứng cho tình yêu của anh và cô gái. Giờ tôi tặng lại anh. Anh hứa nếu còn sống sẽ cùng tôi trở về, sẽ cùng tôi tìm đến tận nhà của anh lính kia để cùng trao lại kỷ vật ấy. Thế rồi Hàn ở lại đơn vị còn tôi theo một đơn vị khác trở về đơn vị cũ. Thư qua thư lại cũng tròn hai năm.
***
Tôi nhận được tin báo tử của Hàn từ một đơn vị bộ đội tác chiến từ Bắc vào. Họ nói đơn vị quân y đóng quân qua quốc lộ 19 đã bị bom chết hết. Không một ai sống sốt. Họ đã chôn cất cho hết thảy hai lăm người bằng ba hố chôn tập thể.
***
Hết chiến tranh. Tôi trở về làm ở Bảo tàng Quân đội tỉnh. Trong suốt chặng đường vào Nam ra Bắc nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, trưng bày, tuyên truyền giới thiệu các tài liệu, hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học phản ánh quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của lực lượng vũ trang Quân khu, tôi đã không nguôi nhớ về vùng đất nơi Hàn đã hy sinh ở đó.
- Thế mà anh ta đã không trở về tìm tôi cô ạ - Người đàn bà nấc lên cùng tôi - Anh ta đã sống, đã trở về và đã không quay lại tìm tôi lấy một lần cô ạ. Khi tôi nhìn thấy anh ấy, tôi tưởng chừng như mình lại chết thêm lần nữa.
- Có thể chú ấy có lý do để không trở lại tìm cô?- Tôi vờ hỏi - Nhớ chú ấy bị thương rất nặng và chú ấy không muốn cô phải chịu cực khổ vì chú?
- Cô biết không? Tôi đã từng vào chỗ anh ấy hy sinh, đã tìm hết từng lòng bờ suối, từng cành cây ngọn cỏ những gì có thể ghi dấu anh ấy của tôi dù chỉ một lần nhưng không thể. Cái phiến đá tôi ngồi cũng bị bom nổ tung rồi, không tìm thấy dấu. Không thấy dấu vết của anh ấy là suốt đời vết thương của tôi cũng sẽ không thể nào hàn gắn được.... - Người đàn bà khóc nấc lên - Có ai đi qua chiến tranh mà vẫn vẹn nguyên cả tinh thần và thể xác được hả cô?
Tôi im lặng không trả lời được. Nỗi day dứt chực ứ lên trên cổ rồi hạ xuống bần thần. Có những người bom đạn không cứa nổi một vết rách trên da thịt nhưng lại đào sâu hun hút hố bom trong lòng người. Tôi lặng nhìn người đàn bà đang ngồi trước mặt tôi. Bàn tay bà bối rối đan vào nhau trước ngực như thừa thãi. Phố Diễn ngoài kia xao xác gió trở mùa. Những cây lộc vừng đã qua mùa cho hoa, lúc lỉu những dây quả xanh xanh trong gió chướng. Tôi nghĩ đến chú Hàn, đến điệu bối rối của chú khi gọi điện nhờ tôi chuyển giùm chiếc lược đến Bảo tàng Quân đội. Chú kể cho tôi nghe chuyện sau khi lành vết thương chú được điều động sang chiến trường Campuchia và bị thương ở đó. Trở về chú cũng đã đi tìm cô, biết cô có gia đình êm ấm và hạnh phúc rồi chú không nỡ làm cô đau lòng lần nữa. Biết cô năm nào cũng về quê mình, chú Hàn đã bỏ về phố Diễn, quê ngoại của chú.
Tôi cũng không ngờ cô Tú khi nhìn thấy chiếc lược ấy lại đi tìm tôi. Tôi không biết phải nói thế nào về chú cho cô nghe cả. Nhìn cô ngồi đó, mắt ngấn nước, những giọt nước mắt hạnh phúc và đau đớn như nén lâu ngày trào ra ướt đầm cả chiếc khăn tay trong tay.
- Lần tôi nhìn thấy anh ấy, tôi đã nghĩ mình bị ảo giác.
Nhưng khi nhận chiếc lược này, theo địa chỉ của cô, tôi biết chắc rằng anh ấy còn sống. Còn sống thì dù có lật tung cả tỉnh này lên tôi cũng phải tìm cho được anh ấy.
Cô nói rồi khóc nấc lên. Tôi lặng lẽ rời ghế đứng dậy. Bởi tôi biết mình không còn có lý do gì để an ủi người đàn bà đã từng sống chết và chờ đợi cả một đời người như thế và tôi biết, đằng sau tấm rèm kia, chắc chú Hàn tôi cũng khó cầm lòng.