Ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập theo Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, gồm 34 chiến sĩ, do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22/12/1944, trở thành ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp đó, ngày 22/12/1989 Ngày hội Quốc phòng toàn dân ra đời.
80 năm qua (1944-2024), với truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế… khẳng định bản lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam - một đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; một lực lượng chính trị đặc biệt, lực lượng tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ chiến thắng Điện Biên Phủ đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Sau 30/4/1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế và hiện đại hóa quân đội.
Kỷ niệm ngày 22/12 như một sự kiện đánh dấu mốc trưởng thành gắn với cuộc sống, chiến đấu rất quan trọng của nhiều thế hệ cha, anh và của cá nhân những lớp cán bộ, chiến sĩ quân đội hôm qua và hôm nay. Mỗi người đều thấm hiểu sâu sắc ý nghĩa và sứ mệnh vẻ vang, những hy sinh, đóng góp to lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chiến đấu và chiến thắng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nhiều chiến công hiển hách, đồng hành với sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Làm sống lại những năm tháng hào hùng và những kỷ niệm của đời người lính đã qua đang trở thành một nhiệm vụ của những người trong cuộc và thế hệ tiếp nối. Những hồi ức qua truyện kể, những trang văn, thơ, bức ảnh, bản nhạc, bức tranh với các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật đều đã tái hiện những năm tháng, đời người, những chặng đường đã qua của dân tộc, dựng nên hình tượng của người lính Cụ Hồ. Suốt 80 năm qua, đề tài lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng vẫn luôn là dòng chảy mạnh mẽ, thôi thúc các thế hệ văn nghệ sỹ trong và ngoài quân đội say mê khám phá, sáng tạo. Chiến tranh nhân dân và người lính cách mạng trở thành đề tài trung tâm của văn học nước ta.
Thời kháng chiến chống Pháp, hàng loạt tác phẩm thơ ca như bài thơ của những người trực tiếp cầm súng xuất hiện làm náo nức lòng người. Đó là “Đồng chí” của Chính Hữu, “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, “Tây Tiến” của Quang Dũng, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ, tập thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu… Giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, văn học nước ta có thêm đội ngũ đông đảo các cây bút ở cả hai miền Nam, Bắc. Những bài thơ của Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Thu Bồn... gần như đã trở thành hành trang của bao lớp cán bộ, chiến sĩ. Cũng trong và ngay sau kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, rất nhiều tác phẩm văn xuôi ra đời đã phản ánh sâu sắc cuộc sống chiến đấu và hình tượng người lính trên các mặt trận, ở hậu phương. Đó là các tác phẩm kí sự, tập truyện ngắn, tiểu thuyết nổi tiếng như “Xung kích” của Nguyễn Đình Thi, “Ký sự Cao Lạng” của Nguyễn Huy Tưởng; “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài; “Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc; “Phá vây” của Phù Thăng, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi; “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu; “Những cánh rừng lá đỏ” của Hồ Phương; “Chiến sĩ” của Nguyễn Khải, “Những người cùng tuyến” của Hải Hồ, “Vùng trời” của Hữu Mai… Về thơ có nhiều cây bút thơ như Nguyễn Mỹ, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Bằng Việt,… góp phần đưa thơ ca chống Mỹ tới đỉnh cao.
Về Âm nhạc, nhiều tác phẩm được coi là bất hủ như : “Cùng nhau đi hồng binh” của Đinh Nhu; “Du kích ca” của Đỗ Nhuận; “Diệt phát xít” của Nguyễn Đình Thi; “Tiến quân ca” (Quốc ca Việt Nam), “Chiến sỹ Việt Nam”, “Tiến về Hà Nội” của Văn Cao; “Đoàn vệ quốc quân” của Phan Huỳnh Điểu; “Lên đàng” của Lưu Hữu Phước; “Tiến bước dưới quân kỳ” của Doãn Nho; “Cô gái vót chông”, của Hoàng Hiệp; “Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn” của Hoàng Hà; “Nổi lửa lên em”, “Bạch Long Vĩ đảo quê hương”, “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” của Huy Du; “Quảng Bình quê ta ơi” của Hoàng Vân; “Vì miền Nam”, “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân” của Huy Thục; “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” của Phạm Tuyên… Không thể kể hết tên tác phẩm và các tác giả âm nhạc, với những bài ca đã đi cùng năm tháng.
Ở lĩnh vực Sân khấu, ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, có vở diễn “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng. Sau đó, hàng loạt vở kịch về về đề tài kháng chiến như “Chiến đấu trong lòng địch”, “Chị Nhàn” của Đào Hồng Cẩm; “Chị Hòa” của Học Phi… Bước vào thời kỳ chống Mỹ cứu nước, hàng loạt vở diễn về đề tài chiến tranh cách mạng, về người lính như “Đâu có giặc là ta cứ đi” của Ngô Y Linh, “Nổi gió” của Đào Hồng Cẩm, “Tiền tuyến gọi” của Trần Quán Anh. Thời kỳ đổi mới, những vở diễn xuất sắc như “Đại đội trưởng của tôi” của Đào Hồng Cẩm, “Lời thề thứ 9” của Lưu Quang Vũ… đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng công chúng.
Với Điện ảnh, những tác phẩm điện ảnh như “Con chim vành khuyên”, “Chị Tư Hậu”, “Kim Đồng”, “Lửa trung tuyến”, “Nguyễn Văn Trỗi”, “Vĩ tuyến 17-ngày và đêm”, “Cánh đồng hoang” đã để lại ấn tượng sâu sắc với công chúng về hình tượng người lính, về lực lượng vũ trang nhân dân…
Ở loại hình nghệ thuật khác như Nhiếp ảnh cũng có nhiều tác phẩm nổi tiếng, là tư liệu hiện thực sống động về lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng. Có thể kể đến các tác phẩm nhiếp ảnh của Vũ Năng An, Đinh Đăng Định, Nguyễn Đoàn về Chủ tịch Hồ Chí Minh; về hình ảnh người lính của Nguyễn Bá Khoản (“Đoàn quân tiến vào ga Tuy Hòa”); Nguyễn Tiến Lợi (“Xung phong”); Triệu Đại (“Cắm cờ trên nóc hầm Đờ-cat”); Văn Sắc (“Những cô gái ngã ba Đồng Lộc”); Đoàn Công Tính (“Đánh chiếm căn cứ Đầu Mầu”); Đinh Quang Thành (“Đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất”); Trần Mạnh Thường với hàng loạt bức ảnh nóng hổi về hình ảnh quân và dân ta chiến đấu trên biên giới phía Bắc năm 1979, các bức ảnh chiến sĩ ta hành quân chiến đấu, chiến sĩ ta đứng trên xác những chiếc xe tăng địch, đặc biệt là bức ảnh “Cô bộ đội bế em bé”… đã trở thành dấu mốc lịch sử cuộc đời của những người trong cuộc và của đất nước.
Về Mỹ thuật, với hàng loạt ký họa thời kỳ kháng chiến chống Pháp của họa sĩ Tô Ngọc Vân; “Kết nạp Đảng tại Điện Biên Phủ”, tranh sơn mài của Nguyễn Sáng; “Gặp gỡ”, tranh bột màu của Mai Văn Hiến; “Ngày thành lập Đội tuyên truyền giải phóng quân”, tranh lụa của Nguyễn Bích; “Cái bát” (Tình quân dân), tranh sơn mài của Sĩ Ngọc; “Trong trung thâm Điện Biên Phủ”, tranh khắc gỗ của Huy Toàn; “Tiếng đàn bầu” tranh sơn dầu của Sĩ Tốt; “Bác Hồ với bộ đội cao xạ pháo”, tranh sơn dầu của Nguyễn Cao Thương; “Hành quân trong mưa”, tranh khắc gỗ của Cửu Long Giang; “Tọa độ lửa”, “Nắng xuân”, tranh sơn dầu của Huy Toàn. Hàng loạt tranh cổ động đã xuất hiện với các chặng đường lịch sử: “Nước Việt Nam của người Việt Nam” (1945) của Trần Văn Cẩn; “Thừa thắng xốc tới” (1964) của Xuân Hồng; “Đâu có giặc là ta cứ đi” (1964) của Văn Đa; “Giặc phá ta cứ đi” (1968) của Đào Đức; “Tiến lên toàn thắng ắt về ta” (1968) của Ngô Mạnh Lân; “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân” (1970), của Huy Oánh, Nguyễn Thụ; “Vinh quang được là người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc” (1978) của Xuân Đông…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ Tổ quốc, các văn nghệ sỹ đã trở thành những chiến sỹ thực thụ, luôn bám sát tình hình, kịp thời phản ánh, tường thuật các chiến công trên khắp các mặt trận. Nhờ đó đã có rất nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị được ra đời.
Có những văn nghệ sỹ cùng bộ đội xuất trận và hy sinh vì cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc như Trần Đăng, Nam Cao, Tô Ngọc Vân, Hoàng Lộc, Trần Mai Ninh, Thôi Hữu, Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Trọng Định, Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân, Dương Thị Xuân Quý…
Sáng tác văn học, nghệ thuật về đề tài lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng là chủ đề, nguồn cảm hứng và là hành trang cuộc đời của văn nghệ sĩ. Phó giáo sư, Tiến sỹ, Nhạc sỹ Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam khẳng định: Suốt 80 năm qua, sáng tác về về đề tài lực lượng vũ trang nhân dân, về bộ đội Cụ Hồ mang giá trị tư tưởng và nghệ thuật lớn. Hình ảnh lực lượng vũ trang nhân dân, anh Bộ đội cụ Hồ, chính là "cánh đồng" đề tài rộng lớn, nguồn cảm hứng bất tận để văn nghệ sỹ sáng tạo, cho ra đời nhiều tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật, gắn liền với truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam.