Tạp chí Văn nghệ Hải Dương
Truyện ngắn "Nữ thần chiến thắng" của tác giả Văn Duy
26/05/2025 08:12:25

Cuối cùng thì tôi cũng đến được nhà ông. Xem đồng hồ là chín giờ mười phút. Vậy là tôi đã đi gần ba tiếng. Người mệt nhưng nghĩ đến việc gặp nhau đột ngột thế này, tôi lại thấy vui. Thấy tôi dựng xe ở ngoài cổng, mấy bác nông dân mau mắn hỏi: “Ông vào nhà cụ Nguyên à? Nhà cụ ấy đấy. Không có chó đâu”. Rồi họ lại tất tưởi quang gánh, liềm, xe kéo đi. Đã vào mùa gặt chiêm. Năm nay từ Tết đến giờ không có hột mưa nào. Nắng tháng Tư đã bắt đầu gay gắt. Tôi vừa đứng để nghỉ, vừa để ngắm bờ dậu ruối nhà ông. Những cây ruối vòng gốc khoảng bốn gang tay, xù xì, mốc trắng một sự già nua. Lá vẫn xanh và được xén vuông vức thành bức tường xanh cao chừng gần hai mét. Cả một kỳ công nghệ thuật, nếu bán được chắc phải có giá trăm triệu. Tôi đứng còn để thở. Cái thở không mất tiền mà được hưởng bao nhiêu không khí trong vắt và lành sạch, mà chỉ có ở vùng sâu vùng xa mới còn, chứ ở vùng nhà quê công nghiệp của tôi khổ lắm. Bụi đất, bụi khói nhà máy, bụi xi-măng từ các lò đứng tỏa ra, bụi ở khu núi nổ mìn phá đá, bụi ở các máy nghiền đá rồi rót xuống xà lan... đã làm bẩn hết không khí trời cho.

- Cụ hoạ sĩ ơi, có khách.

Tôi vừa gọi vừa bóp còi xe inh ỏi và bỡn cợt, chả là tôi với cụ xưa cùng ở phòng sáng tác của Ty Văn hóa. Tôi dong xe vào đến đầu sân thì cụ cũng tất tả ra đón. Vẫn cái kính cận dày như đít chai, trông đôi mắt cụ nở ra kỳ quái như mắt hỏng.

Ối trời, có dễ ba chục năm rồi, nay mới lại thấy chú nhà báo. Về hưu chưa? Khoẻ không? À mà mình buồn cười nhỉ. Chú đến đây tức là khoẻ, còn tuổi thì chú kém tớ chín năm vậy là chú sáu sáu. Hưu là cái chắc. Ấy mình cứ lẩm cẩm và quen mồm như những anh cán bộ hành chính sáo mép thế đấy. Thôi vào đây. Chú đã đến đây hẳn là có sự. Lạ gì cánh báo chí các chú. Này, tớ biết tỏng rồi. Lại vì bức tranh chứ gì?...

Cụ hồ hởi, vồn vã nắm tay tôi kéo vào trong nhà. Hoạ sĩ Bình Nguyên năm nay bảy nhăm tuổi nhưng còn quắc thước, tráng kiện lắm. Vầng trán hói. Mái tóc bạc trắng như mây núi Sapa. Nước da hồng và căng của sự sung mãn thể chất. Hàm răng trắng đều như răng con gái. Tất cả cái đó toát ra một thứ mà ngày nay người ta thường dùng từ “Phong độ”.

Sau khi tốt nghiệp lớp mỹ thuật ngắn ngày, hoạ sĩ Bình Nguyên về công tác ở Ty Văn hoá vào năm 1951. Từ đấy ông vừa làm, vừa học và đến năm 1970 ông tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật. Trong giới hoạ sĩ, người ta thừa nhận ông chỉ ở bậc trung. Cả đời ông chưa có tác phẩm nào được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật trong nước chứ chưa nói đến nước ngoài. Vậy mà đến năm 2000, khi sắp vào tuổi cổ lai hy, ông lại cho ra một tác phẩm làm cả giới hội hoạ Việt Nam ngỡ ngàng. Các nhà phê bình tranh đánh giá rất cao tác phẩm của ông. Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đề nghị ông được mua tác phẩm. Nhiều nhà chơi tranh, sưu tầm tranh giàu có đòi mua tác phẩm ấy. Một người Mỹ đặt giá một trăm năm mươi ngàn đô cho tác phẩm của ông (vào khảng 2.550 triệu tiền Việt), một số tiền khá lớn, mơ cũng không được đối với người nghệ sĩ chân chính ở đất nước ta.

 
 
 

Vừa uống trà, tôi vừa gợi chuyện và nói với cụ:

- Cái đẹp của tác phẩm “Nữ thần chiến thắng”, tôi đã đọc ở nhiều báo chí. Giá tiền của tác phẩm là hai tỷ rưỡi tôi cũng đã biết. Tôi chỉ xin cụ kể cho nghe quá trình dựng tác phẩm như thế nào và từ nguồn cảm hứng trước hiện thực nào mà cụ có được kiệt tác ấy?

- Chà! Cái chú nhà báo hết biên chế này hỏi cũng oái oăm đây. Nhưng hãy từ từ, làm ly rượu đã. Rượu vào lời mới ra được.

Cụ mở tủ, lôi ra hai cái ly và chai rượu Tây có nhãn ghi chữ Martell và hình đầu người tóc dài, màu vàng in nổi. Cụ vừa rót vừa bảo: rượu anh em bạn bè đến mừng đấy, chứ mình có như quan chức đâu, làm sao có tiền mà uống rượu ngoại.

Tay cầm ly rượu, hoạ sĩ Bình Nguyên dẫn tôi xuống nhà ngang mà cụ gọi là “xưởng vẽ nhà quê”. Đó là hai gian nhà cấp bốn đã cũ, được tân trang lại, rộng, thoáng và đủ ánh sáng - cái thứ mà giới hoạ sĩ cần như cơm ăn nước uống để tạo ra tác phẩm. Cụ chậm rãi, với chất giọng sâu lắng khác với cái vồn vã ban đầu, nói với tôi:

- Đây là quá trình ra đời của “Nữ thần chiến thắng”.

Cụ lần lượt chỉ vào bức tranh thứ nhất, thứ hai rồi thứ ba. Cả ba bức đều có kích cỡ 1m x 1,6m và chất liệu đều là sơn dầu, với nội dung và bố cục mảng khối không khác nhau là mấy. Bức thứ nhất vẽ theo lối tả thực cả về màu sắc và đường nét. Bức thứ hai vẽ theo gam màu xám tro làm chủ đạo. Nhìn bức tranh, nó gợi sự mất mát, hơi lạnh lẽo của chiến tranh mà không thể hiện được sự sống của con người và đất nước. Tác phẩm hơi buồn và ảm đạm. Bức tranh thứ ba dùng gam màu vàng lửa làm chủ. Tranh không buồn nhưng hình như có cái gì đó hơi cương, hơi chối. Nó gợi tính cổ động nhiều hơn là tả thực.

- Ông thấy đấy. Cụ vừa nói vừa chỉ vào ba bức tranh:

- Tôi đã vẽ ba bức ấy với ba dụng ý nghệ thuật khác nhau. Tôi vẽ từ lúc nghỉ hưu đấy. Nói là vẽ nhưng thực chất thời gian nghĩ, tưởng tượng và ngắm tranh nhiều hơn thời gian cầm cây cọ. Tôi đã cân nhắc, tính toán và thể hiện. Cuối cùng tôi vẫn bỏ. Bỏ tất vì tôi có cảm giác mình chưa thể hiện đúng cảm hứng của mình, cho nên hình trong tranh, màu trong tranh đều toát lên cái hời hợt, giả dối. Nó chỉ là tranh vẽ mà không có hồn. Một thứ tranh chết. Chú hiểu không?

- Cụ ạ, nghe cụ nói, tôi hiểu thêm chứ nếu không, tôi thấy bức nào cũng đẹp.

Chú nói dối, hoặc chú động viên tôi, chứ cái nghề vẽ của tôi không lừa ai được. Người ta có thể không biết vẽ; người ta có thể không hiểu lý luận hội hoạ nhưng cái đẹp của tranh như cái đẹp của con người, nhìn là hiểu. Nào ta có học mỹ học này mỹ học nọ đâu nhưng chú nhìn cô gái đẹp là chú biết và chú mê liền dù cô gái ấy là da trắng, da vàng hay da đen. Vì vậy tôi bỏ cả ba tranh mặc dù tôi rất tốn kém với nó. Và tôi càng cay cú với đề tài của tôi. Tôi quyết không đầu hàng vì tôi nghĩ nếu đầu hàng thì tôi không xứng danh hoạ sĩ và càng không xứng với phẩm chất con người Việt Nam.

- Cụ nói vậy có lẽ suy diễn hơi quá.

- Không. Không có gì quá hết. Rồi chú sẽ hiểu. Và đây, tác phẩm “Nữ thần chiến thắng” của tôi đã ra đời.

Nói rồi, cụ mở cửa gian bên, mở hai lần vải trắng, để lộ ra bức tranh. Tôi bàng hoàng cả người và thốt lên “Ôi, quá đẹp, quá đẹp!”. Cả tôi và cụ đứng lặng trước tác phẩm. Tôi như bị cuốn vào, dính vào, nhập vào bức tranh. Cả bức tranh là màu đất và màu lửa. Trên nền tranh là khoảng đất lỗ chỗ hố bom và ngổn ngang đất đá khô khốc. Vài thân cây, gốc cây bị bom phạt hoặc thiêu cháy đen đủi và thương tích. Cả vùng chỉ có cái chết mà không hề có sự sống. Nền trời chiều bầm như máu gợi sự dữ dội của chiến tranh. Giữa bức tranh là cô gái khoả thân trong tư thế bước tới. Tay phải giơ lên một vật tròn to như ống cân đong gạo. Tay trái vung ngang như gạt đi mọi vướng mắc. Đầu cô buộc tóc bằng tấm khăn đỏ màu cờ. Đôi vú, bắp tay, cơ đùi được vẽ kỹ rất đẹp. Cả cái chỗ kín cũng được hoạ sĩ không hề giấu giếm.

- Chú hiểu không? Đây là cô thanh niên xung phong vừa tháo được kíp bom nổ chậm từ dưới hố chạy lên gọi bạn. Chú thấy tranh thế nào?

- Tôi chỉ thấy là đẹp nhưng cứ mạnh dạn hỏi lão hoạ sĩ đôi điều để hiểu thêm dụng ý nghệ thuật của tác giả.

- Chú cứ tự nhiên.

- Tôi đã xem nhiều tranh của các hoạ sĩ phương Tây như VêNus giáng sinh của Sandro, Ý thế kỷ 15; Thần ái tình và Psiché của Jacopo Zucchi, thế kỷ 16; Cuộc hôn nhân giữa nữ thần trái đất và thần biển của Rubens, thế kỷ 17 ở Bỉ... khi vẽ khoả thân, các hoạ sĩ thường tìm cách che “cái ấy” bằng mảnh vải, dải lụa hay một vật gì đó. Còn cụ cứ vẽ cả ra, liệu có thô không?

- Chú cứ hỏi tiếp.

- Hình như người con gái trong tranh của cụ có phần quá hư cấu chứ thời chiến tranh, cô gái thanh niên xung phong làm sao béo tốt, đẹp như vậy?

- Chú nói đúng. Nhà hoạ sĩ trầm giọng xuống, xúc động. Chú có tưởng tượng được không? Trước mắt tôi, không xa là cô gái thanh niên xung phong trần như nhộng. Tôi nhìn rõ cặp đùi teo tóp, những dẻ xương sườn và cặp vú dẹt, nhăn, dán vào ngực. Cô ấy trẻ như con gái tôi. Vì vất vả, vì đói lại thiếu chất nên gầy nhom, thương lắm. Thế nhưng chính cái cơ thể gầy nhom ấy lại chứa một sức sống mãnh liệt tạo nên chiến thắng. Tôi không vẽ tả thực cô ấy mà tôi vẽ sức chiến thắng của cô ấy. Tôi đã vẽ to đôi vú và cặp đùi cô gái. Tạo hoá cho người đàn bà có đôi vú, đó là hai tấm huân chương đầy kiêu hãnh về cái đẹp giới tính. Đấy còn là nguồn sống của con người, là sự bất diệt, là thơ là nhạc nữa đấy! Tôi không giấu đi chi tiết nào kể cả chỗ cần giấu nhưng xem tranh chú có thấy bật lên dục vọng không?

- Quả là không có. Tôi khẳng định.

Vậy là đạt rồi. Ở đây chỉ còn cái đẹp, sức sống đối lập với ngổn ngang đất đá và chết chóc của kẻ thù. Sức sống của chúng ta đã vươn lên, đã thắng cái ác, cái chết. Ý tôi là như vậy.

Nghe hoạ sĩ Bình Nguyên phân tích, tôi càng hiểu thêm ý nghĩa tư tưởng của ông gửi gắm trong một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng không hiểu ông nghĩ ra từ bao giờ hay ông bắt gặp một hiện thực nào khiến ông nảy ra ý tưởng. Tôi mạnh dạn hỏi. Và ông kể:

- Vào năm 1971, tỉnh cử một đoàn văn nghệ sĩ đi phục vụ hoả tuyến. Đoàn có 20 người, gồm 12 nam và 8 nữ. Trong đó chủ yếu là văn công, hoạ sĩ và cán bộ tuyên truyền. Sau 400 ngày phục vụ tuyến lửa, đoàn văn nghệ xung kích được lệnh ra Bắc. Chúng tôi, tất nhiên là rất phấn khởi. Dọc đường chúng tôi gặp không biết bao nhiêu đơn vị bộ binh, công binh, pháo binh, xăng dầu, văn công, thanh niên xung phong nườm nượp vào Nam. Nói là ra Bắc nhưng thực chất vừa đi vừa phục vụ bằng hát hò, tuyên truyền, không kể ngày đêm, chúng tôi khí thế lắm. Có những đợt hành quân, chúng tôi vượt hai trạm liền. Một buổi chiều, chúng tôi được nghỉ dưỡng sức để ngày mai vượt Chà Lỳ. Nói đến Chà Lỳ thì ai cũng biết. Có người gọi nó là cửa tử, là đường chết. Đó là trọng điểm cực kỳ ác liệt, dài khoảng trên ba cây số. Mùa mưa thì bùn lầy dính và nhão nhoét. Mùa khô đất rắn và đỏ như mảnh sành. Sau nhiều trận oanh tạc của B52 Mỹ, con đường đã biến thành sa mạc chỉ có đất cát tơi bời, những gốc cây bật trơ và đá ngổn ngang. Không một ngọn cỏ, không một lá cây xanh.

Một cuộc họp diễn ra khẩn cấp giữa binh trạm, chính uỷ với đội trưởng đội văn nghệ xung kích. Có hai phương án vượt Chà Lỳ được đưa ra bàn. Một là đảm bảo an toàn cho đội thì phải đi đường vòng mất ba ngày. Lại băng rừng, lội suối, ngủ rừng. Mà nào ai dám chắc một trăm phần trăm không bị oanh tạc. Hai là mạo hiểm đi hẳn ban ngày chỉ mất bốn tiếng đồng hồ. Ai cũng nóng lòng ra Bắc, về với quê hương. Đã hai ngày nay địch không đánh phá. Chúng đang tính mưu kế gì đây hay là vì thất bại liên tiếp ở chiến trường mà ngừng? Chúng tôi tính toán cứ đi. Bốn giờ thôi mà. Giả dụ có máy bay thì đánh trả, chưa chắc đã chết mà còn thêm thành tích cũng nên. Dù có hy sinh thì cũng chỉ một vài người chứ chết sao hết cả đội mà lo. Và cũng là vì Tổ quốc, như bao chiến sĩ khác, có sao đâu. Thế là chúng tôi quyết định và vạch ra kế hoạch cụ thể: Cả đội chia làm 7 tốp, mỗi tốp ba người. Riêng tốp tôi có hai. Ai cũng thông cảm cho tôi là hoạ sĩ hay nghênh giời nghênh đất, lại có tuổi nên chậm chạp hơn cộng với cái bệnh chậm bẩm sinh. Đoàn cử cô Huệ đi cùng tốp với tư cách một đòn xeo thúc đẩy. Cứ cách mười lăm phút lại cho một tốp xuất quân. Vì sợ bị bỏ rơi, cả đội cho tốp tôi đi đầu với ý định thúc tôi phải đi nhanh để các tốp khác còn đi.

Tôi và Huệ choàng vải dù và “lên đường” một cách hăm hở. Nhưng bước vào mảnh đất trọng điểm, nhìn gần, nhìn xa, trông phải, trông trái tôi bắt đầu thấy rờn rợn. Tôi nghĩ: Chả lẽ cái “anh hùng” của mình đã bay biến rồi sao? Mà đã gặp địch đâu? Cái đích trước mặt phải tới là một khu rừng. Nói là đường nhưng nào có mép đường. Tất cả chỉ là bãi đất mênh mông không giới hạn. Người đi qua phải tuân theo dấu hiệu riêng. Đó là những chiếc cọc nhỏ, nhô khỏi mặt đất chừng gang tay, buộc phất phơ dải lụa xé từ dù pháo sáng. Những chiếc cọc tiêu như lần đi giữa vô vàn những chiếc dù cũ, mới lấm lem bùn đất. Cứ cách khoảng trăm mét lại có một hầm kèo được ngụy trang rất khéo. Tôi và Huệ thập thững bước đi. Đường khô và lầy cát. Bàn chân lún sâu vào cát. Tai và mắt căng ra nghe ngóng. Thỉnh thoảng Huệ lại giục, lúc thì “Cố lên anh”, lúc thì “Mạnh lên bố già”. Tôi đùa bảo Huệ: “Hay là em cõng anh mà chạy cho nhanh”. Huệ cười “Eo ôi con cò hương mà cõng cối xay cùn á?”. Đùa vậy nhưng chúng tôi vẫn cứ chờn chợn. Các tốp khác khoẻ quân nên họ ào vượt lên trước hăm hở chẳng để ý gì. Tôi và Huệ hoá tốp cuối cùng. Ước tính đã vượt được nửa đường, tôi thấy một chiếc biển nhỏ màu đỏ có ghi “bom nổ chậm”. Cả vùng Chà Lỳ này loại biển như thế thường xuyên xuất hiện. Và ngay dưới chân tôi, trên tấm dù pháo sáng có một xấp quần áo. Trên có tờ giấy gói hàng được chặn bởi một hòn đá. Tôi và Huệ thấy lạ, ngồi xuống lấy tờ giấy ra xem. Trên giấy còn ghi nguệch ngoạc mấy chữ: “Nếu tao bị, cho cái Liên quần con, áo con, tặng chị Hạ chiếc quần to. Còn cái áo cho con Tí. Chào”.

Tôi lặng người đi. Huệ mở xấp quần áo. Bộ quần áo xanh lá cây đã cũ và nhàu nát. Chiếc quần con màu hồng nhạt chắc từ nhà mang đi cũng đã bạc màu và mép viền đã sờn. Cái áo con cũ và có vẻ cứng vì ít giặt. Huệ và tôi vừa xem vừa lã chã nước mắt. Tôi lau kính nhìn quanh đoán cô gái phá bom chắc cũng gần đây. Vừa lúc ấy, một cô gái từ hố bom giữa đám dù trước mặt nhô lên và nhảy hẳn lên bờ hố gào to “Chúng bay ơi, thắng rồi, thắng rồi”. Tôi không tin vào mắt mình. Một cô gái gầy nhom, trần như nhộng, đầu bịt khăn đỏ, tay giơ cái bộ phận gây nổ, tròn to như ống cân đong gạo. Huệ vội ôm xấp quần áo lao đến. Cô gái đội khăn đỏ nhận ra người lạ, lại tụt xuống hố bom. Lát sau cô lên, tươi cười trong tư thế cô thanh niên xung phong. Tôi và Huệ quên cả việc phải đi nhanh, đứng lại nói qua loa vài câu rồi cô chạy về phía binh trạm. Chúng tôi tiếp tục đi. Tôi kịp lấy bút ghi tên và địa chỉ của cô. Cô dặn với: “Nếu quên địa chỉ, anh chị cứ nhớ Hiền Chà Lỳ là được”.

Quãng đường còn lại, tôi đi như bay. Có lúc Huệ phải gào lên “Anh Nguyên, bỏ em một mình à”. Tôi bỗng giật mình nhớ ra còn có Huệ đi bên. Tôi đi hăm hở và thanh thản như đi trong hoà bình. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao mình có những cảm giác ấy. Có phải vì Hiền Chà Lỳ hay không? Đôi lúc tôi tự thấy xấu hổ: Người ta là con gái, sống với vùng bom đạn, người ta chả sợ. Mình đi qua thôi mà cứ nơm nớp. Và tôi cứ miên man nghĩ về Hiền Chà Lỳ, nghĩ về những cô gái thanh niên xung phong. Tôi về cơ quan, về gia đình sẽ kể lại chuyện này cho mọi người nghe.

Trong lúc kể chuyện cho tôi nghe, thỉnh thoảng họa sĩ Bình Nguyên lại lấy khăn lau kính. Có lúc nước mắt ông chảy thành dòng xuống gò má. Tôi bị cuốn vào câu chuyện và lặng nhìn trân trân vào bức tranh, vào cô gái khoả thân. Tôi tưởng như mình đang đứng ở trọng điểm Chà Lỳ đầy bom đạn, như đang được đứng trước Hiền Chà Lỳ mà sức sống của cô đã chiến thắng cái chết.

- Cụ thật là may mắn. Xin chúc mừng thành công nghệ thuật của cụ!

Hoạ sĩ Bình Nguyên bắt tôi nâng ly, rót rượu và cụng ly thứ hai, nói:

- Chú ạ! Chính dân tộc mình, chính cái đẹp của hàng vạn cô gái thanh niên xung phong đã tạo nên tác phẩm nghệ thuật này.

 
 
 
Các tin mới hơn
Đất nước tôi(27/05/2025)
“THẦN TỐC, TÁO BẠO, QUYẾT THẮNG” TIẾN VÀO GIẢI PHÓNG SÀI GÒN (30/4/1975)(27/05/2025)
Truyện ngắn "Hương tóc" của tác giả Đỗ Xuân Thu(27/05/2025)
Các tin cũ hơn
Khai mạc Triển lãm 50 năm thành tựu văn học nghệ thuật sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975 - 30/4/2025(26/05/2025)
Thao thức với vừng trăng (Nhớ Trần Thế Lộc - bạn cùng vào chiến trường năm 1973- hy sinh tại Bình Chánh, Xuân Lộc, Đồng Nai đúng ngày 30/4/1975) (23/05/2025)
Ngọn gió tháng Tư(23/05/2025)
50 năm văn học nghệ thuật Hải Dương đồng hành cùng đất nước(22/05/2025)
Một lần Phú Quốc (22/05/2025)
na
na
na
na
na
na
na
na
na
na