Tháng Tư năm 1972, đại đội bảo vệ trạm phẫu được bổ sung chừng hai chục tân binh. Toàn gương mặt trẻ trung ngời sáng, pha chút gì đó vẻ ngây thơ. Họ nhập ngũ chưa đầy hai tháng đã vào Nam chiến đấu. Trong số đó có Bảo, một chàng trai phố thị lém lỉnh và tài hoa, xởi lởi, chân thành và cả tin. Đợt bổ sung quân ấy qua vài ba cuộc chống càn đã vơi đi. Người còn sống buộc phải nhanh chóng làm quen với môi trường mới, nếu không muốn trả giá bằng chính sinh mạng của mình. Ở chiến trường cái chết không chừa một ai, dẫu là ông tướng. Số còn lại đều trở thành lính cựu, thành cán bộ tiểu đội, trung đội. Họ chẳng khác gì những hạt gạo còn nằm trên sàng. Vài chục người mới sót mấy người. Họ là báu vật. Sáng hơn ngọc. Trong hơn pha lê. Họ là vàng ròng được tôi luyện qua ngọn lửa của cuộc chiến cực kì cam go vào bậc nhất miền Nam. Ngày đó tôi là bác sĩ trạm phẫu, 24 tuổi, vào chiến trường trước họ một năm. Mối quan hệ giữa hai bên rất thân tình, thắm thiết. Có thể được ví như máu thịt tim óc. Chúng tôi không có thời gian phân biệt nghề nghiệp, thành phần trước khi nhập ngũ. Chỉ biết bây giờ tất cả chung nhau niềm khát vọng ước mơ. Chung nhau cả quá khứ tuổi thơ và nỗi buồn hiện tại. Lớp lính mới gọi tôi là “Chị hiền”. Cũng đúng thôi vì tôi hơn họ tới bốn, năm tuổi. Lớp lính cựu lại gọi là “Từ mẫu”. Họ phiên âm từ câu thành ngữ “Lương y như mẹ hiền”. Thoạt đầu nghe lạ tai và ngượng. Sau quen và trở thành không biết bao nhiêu đề tài tiếu lâm mà chỉ có những người lính mới nghĩ ra được. Chẳng hạn họ trêu: “Ối, mẹ hiền ơi, con buồn ngủ quá. Mẹ ru ngủ đi”. Lúc khác lại gọi: “Mẹ hiền ơi, con tè ra quần rồi. Thay quần cho con”... Có lẽ cuộc sống của người lính luôn phải đối đầu với những trận chiến ác liệt, đối đầu với đói rét, bệnh tật cần phải có những câu chuyện vui như thế. Nó xóa nhòa tuổi tác công việc. “Quê em là một thị xã cổ, có từ gần hai trăm năm trước. Phố em làm nghề đan cót. Nhà ở toàn lợp lá gồi, tường trát rơm trộn bùn. “Nghèo lắm”. Một lần Bảo tâm sự: “Đầu phố phía Cổng Chông có một cây đa to lắm. Các cụ truyền lại rằng, cây đa ấy có tuổi thọ cùng với thị xã. Ngày còn nhỏ, tụi em đùa nghịch dưới bóng cây. Cả mùa đông lẫn mùa hè. Những cái rễ vồng lên như chiếc ghế bằng, rất tiện cho việc ngồi hóng mát. Những quả đa chín đỏ, ngọt hơn đường. Từng đàn chim đủ loại ríu rít suốt ngày. Trước chiến tranh, ban đêm, nhiều đôi nam nữ thường ra đây tâm sự, nhất là vào những đêm trăng sáng. Năm 1968, máy bay Mỹ thả bom bật gốc, cây đa đổ nghiêng, tưởng chết. Thế mà khi mùa xuân đến, cây lại đâm chồi nảy lộc. Chị bảo thế có tài không?”. Lần khác Bảo nói: “Chị không thể hình dung ra những đêm tháng Chạp, rét quắt tai. Gió bấc thổi ào ào từng cơn, quét dọc con đường khuya vắng bóng. Rét buốt như thế mấy ai hứng thú đi dạo phố. Em ôm cái bị, hôm thì đựng lạc rang, hôm thì bánh mì, có hôm cả hai thứ vào ngực cho ấm. Vừa nhảy tâng tâng vừa rao: Ai lạc rang húng lìu. Ai bánh mì nóng giòn... Đ... .... ây. Ối giời, lạc rang húng lìu chị đã ăn bao giờ chưa?”. Tôi lắc đầu. Bảo tiếp lời: “Ngon lắm, ăn một lại muốn ăn hai. Lạc em cất của ông Tầu góc đường Phạm Hồng Thái thì trên cả tuyệt vời”. Tôi hỏi: “Vắng người như thế thì em bán cho ai?”. “Có chứ. Chẳng hạn một cặp tình nhân đi chơi về muộn. Một ông đạp xích lô ngồi ngáp vặt chờ khách chuyến tàu khuya. Hoặc một gia đình khá giả nào đó thích ăn chơi”. Tôi chưa hề đặt chân tới cái thị xã có tuổi đời gần hai trăm năm của Bảo. Quê tôi ở miền trung du, lại thuộc vùng sâu, vùng xa. Hình thù chiếc tàu hỏa ra sao mãi đến khi vào Đại học Quân y mới biết. Tôi cố hình dung ra cái thị xã vừa nghèo, vừa cổ đó. Cái phố Phạm Ngũ Lão dài hun hút gió lùa. Cả mùa hè lẫn mùa đông. Trên nóc nhà lởm chởm những cây dóc chằng néo chống bão. Đêm chiến tranh luôn mất điện. Và tiếng rao khản đặc của một thằng bé mười ba tuổi. Tiếng ầm ì đều đều suốt ngày từ nhà máy sứ vọng ra. Tiếng còi tàu lảnh lót rơi vào thinh không. Bảo ước ao sau này trở thành thầy giáo. Nhưng chưa học xong phổ thông thì một lần nữa chiến tranh lại ập đến.

Minh họa: Bùi Quang Đức
Trận chống càn ác liệt hơn dự tính của mọi người. Các bác sĩ, y tá vừa phải chuyển thương binh vừa tham gia chống càn. Anh Khâm, trưởng trạm, phân công tôi theo đại đội bảo vệ. Lửa khói mù mịt. Tiếng nổ các loại súng vang rền. AR15 nổ chát chúa. AK47 nổ từng nhịp ngắn chắc nịch. Cối cá nhân nổ đinh tai nhức óc. Cát bụi mù mịt. Mấy chiếc trực thăng chiến đấu sà sát ngọn cây phóng rốc két, bắn đại liên vào trận địa phòng ngự của quân ta. Bầy chim rừng giật mình bay loạn xạ, kêu táo tác. Thấp thoáng trong lửa và khói, xác địch nằm đè lên nhau. Chúng tạm rút ra để sau đó lại tổ chức đợt tấn công mới. Trận địa bỗng trở nên im ắng. Yên tĩnh đến ngờ vực. Gió hun hút tràn về. Mùi cỏ tranh cháy ngai ngái. Mùi xác người cháy khét lẹt. Những người lính giải phóng bình tĩnh chờ đón kẻ thù. Vòm trời xanh ngắt. Những dải mây trắng mỏng tang bay ngang. Gió lùa trên ngọn cây xào xạc. Chim chóc dường như cũng linh cảm thấy trận chiến ác liệt nên bay đi đâu hết. Lâu lâu lũ máy bay trực thăng phành phạch lướt qua đầu. Mọi người đã quá quen những cảnh này. Thậm chí nghe tiếng nổ đầu nòng còn đoán được quả pháo sẽ rơi ở đâu. Tiếng Bảo nói nhỏ: “Anh Hải. Địch tới”. Đại đội trưởng Hải dặn: “Chờ chúng vào gần thêm chút nữa. Trung đội mày chặn ở đây. Tao dẫn Trung đội 3 chọc sườn chúng nó”. Khoảng cách giữa hai bên rút dần. Năm chục mét. Ba chục. Rồi một chục. Những tên lính Sài Gòn dè dặt từng bước một. Những chiếc mũ sắt nặng nề chụp lên đầu chỉ còn hở đôi mắt. Lo âu và hoảng loạn. Những khuôn mặt đỏ gay nhễ nhại mồ hôi, mệt mỏi. Bốn trái đạn B40 đồng loạt nổ dữ dội. Bốn quầng lửa và khói đen trùm lên đội hình địch. Bảo vung tay ném liền hai trái thủ pháo vào đám lính gần nhất. Khắp trận địa chỉ còn tiếng nổ của AK. Trận đánh xảy ra chừng ba chục phút, khi Trung đội 3 do đại đội trưởng Hải dẫn đầu xông ra thì thế trận đã coi như an bài. Kẻ địch rút hẳn ra bìa rừng và gọi pháo từ Hòn Vượn, từ Chóp Nón bắn cấp tập vào những nơi chúng nghi ngờ. Ai từng ở chiến trường miền Nam, từng trực tiếp cầm súng nơi hòn tên mũi đạn đều biết có những cái chết cực kì vô lí. Vô lí đến trơ trẽn. Ấy vậy mà nó vẫn cứ đến. Một quả đạn pháo rơi cách công sự của Bảo khá xa. Không nổ. Khi Bảo đi ngang qua, bất ngờ nó phát nổ. Những mảnh pháo dường như chỉ nhằm vào Bảo. Một mảnh xuyên vỡ mắt trái. Một mảnh găm vào bụng. Và một mảnh, chắc to nhất, cắt phăng chân trái, phần ngang đùi. Máu phun xối xả. Tôi cố gắng ga rô nhưng máu vẫn không hết chảy. Anh Hải vô cùng lo lắng. Chốc chốc anh lại hỏi, giọng cáu kỉnh: “Máu đã ngừng chưa?”. Tôi lắc đầu: “Đứt động mạch chủ. Phải đưa gấp về trạm phẫu, ở đó có đầy đủ thuốc men và phương tiện”. Hải hạ giọng: “Ờ... ờ. Đừng giận nghe Tâm. Bởi anh nóng ruột quá. Chỉ lo thằng Bảo không qua khỏi”. Rồi anh sai hai chiến sĩ khỏe mạnh cùng tôi đưa Bảo về ngay trạm phẫu. Thời khắc lúc này là sinh mạng của đồng đội. Bảo mê man ngay từ lúc bị thương. Suốt dọc đường, tôi không rời mắt khỏi khuôn mặt bị băng một nửa, nửa còn lại là nước da xanh tái màu chì, nhợt nhạt. Đó là di chứng của những trận sốt rét. Sốt rét ở rừng là chuyện thường nhật. Cơn sốt đến rồi đi như mưa rào mùa hạ. Người lính nào vượt qua một trận sốt rét coi như đã được cấp chứng chỉ của chiến trường.
Bây giờ Bảo nằm đây. Bất động như một xác chết. Người con trai hơn 18 tuổi, nhập ngũ được 9 tháng, đi qua vài ba trận đánh, tưởng bom đạn không thể làm gì. Mười tám tuổi chưa hề có bóng hình người con gái nào đọng ở trong tim. Nói chi đến cầm tay thương nhớ. Trăng đầu tháng vằng vặc. Không gian như rộng ra. Tôi nhớ đến tiếng đàn ghi ta của Bảo, mỗi lần Bảo ghé thăm trạm phẫu. Những bản nhạc hành khúc. Những bản dân ca. Những điệu nhảy của dân tộc nào đó. Tôi không hiểu lắm, nhưng thật hay và rộn rã. Người nằm ngả ngốn, người ngồi tựa vách hàm, vỗ tay theo nhịp. Nửa đêm Bảo khẽ cựa mình và mở mắt, thều thào: “Chị Tâm”. Tôi nhìn vào con mắt còn lại của Bảo, con ngươi khẽ chuyển động: “Em thấy trong người thế nào?”. “Hiện còn đau ở bụng. Ít thôi. Nhưng có lẽ em không sống nổi”. Tôi gắt yêu; “Đừng nghĩ quẩn. Đây là trạm phẫu có đầy đủ thuốc men và phương tiện”. Dường như Bảo khẽ lắc đầu: “Em biết mà. Chỉ thương mẹ em. Chắc mẹ sẽ buồn khi biết tin này”. Bảo nói đúng. Máu không ngừng chảy. Những ống thuốc cầm máu dường như không có tác dụng. Bảo bị thương nặng quá. Vuột khỏi tầm tay của một trạm phẫu tiền phương. Tôi thấy mình bất lực. Buồn quặn thắt. Căn hầm trở nên trống vắng. Nóc hầm nặng trĩu đang nhều ra từng giọt nước. Vậy là sẽ vĩnh viễn mất Bảo. Chẳng nhẽ cuộc đời một con người lại kết thúc vậy sao? Tôi từng chứng kiến và tự tay chôn cất đồng đội, nhưng chưa khi nào giải thích nổi chiến tranh là gì. Là ngày nào cũng nhìn thấy người chết? Là ngày nào cũng phải chôn người chết? Tàn nhẫn và độc ác quá. Nhưng với Bảo thì quả thật là đột ngột và bất ngờ. Quả đạn pháo vu vơ lại nhằm trúng vào Bảo. Thật là một sự phi lí. Trong cuộc chiến này, mỗi người lính ngã xuống không chỉ là nỗi đau của một bà mẹ, một người vợ và những đứa con. Mà còn là nỗi đau chung của dân tộc, của đồng đội. Bảo khẽ gọi: “'Chị Tâm”. Tôi cúi xuống: “Em cần gì?”. Tiếng Bảo nhỏ nhưng rõ ràng: “Em không thể sống được nữa. Đừng bơm thuốc cho phí. Chị biết đấy. Mười tám tuổi em chưa từng cầm tay người con gái nào. Trước khi nhắm mắt, em thèm một nụ hôn của người khác giới. Chị đừng ngắt lời em. Nguyện ước cuối cùng, xin phép cho em được hôn chị một lần. Một lần thôi”. Tôi hơi giật mình. Thực ra một cái hôn chả là gì, nhưng với yêu cầu của một chiến sĩ trẻ trước khi nhắm mắt nó thiêng liêng và trân trọng xiết bao. Lời cầu xin của Bảo khiến tôi nhớ lại mối tình đầu của mình.
Đó là năm thứ ba đại học, tôi biết yêu. Một chàng trai bình thường như bao chàng trai thời đó. Anh lái xe cho một công ty vận tải. Thời gian gặp nhau ít lắm. Những chuyến chở hàng vào Nam dường như không ngừng nghỉ. Mẹ tôi phản đối quyết liệt. Đơn giản chỉ vì anh ấy là lái xe. Thế thôi. Chẳng biết từ đâu thổi vào tai bà toàn điều không hay. “Hòn đất mà vứt lên xe mấy ngày cũng thành ma thành quỷ”. Bà đã khổ gần hết đời với ông chồng lái xe rồi. Chồng chung vợ chạ. Giá như anh không phải lái xe, hẳn cuộc đời tôi sẽ rẽ sang ngả khác. Tôi ậm ừ nhưng vẫn bí mật gặp anh. Một lần anh rủ tôi đi dạo. Thành phố đêm phòng thủ vắng vẻ. Lác đác mới có một ánh đèn phòng không vàng vọt. Trời cuối thu, lá rụng nhiều như reo rắc nỗi niềm. Cả một bầu trời đầy sao lấp lánh. Anh luôn nắm tay tôi. Bàn tay cứng như sắt. Anh nói: “Phải như vậy mới có cảm giác em là của anh. Của anh mãi mãi”. Tôi sẽ rất hạnh phúc nếu như anh đừng tỏ ra quá vội vàng, quá mạnh mẽ. Một tay anh ôm tôi. Rất chặt. Ánh mắt rực lửa khát khao khám phá và tìm kiếm, khiến tôi hoảng sợ. Tay còn lại của anh vung lên hạ xuống theo nhịp của lời nói. Chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, bàn tay ấy đập mạnh vào ngực tôi. Tôi hoảng sợ. Người run bắn. Tim đập thình thịch. Như một phản xạ tự nhiên, tôi lấy hết sức mình đẩy mạnh anh ra xa. Và ngoắt người vùng chạy. Vừa chạy vừa khóc ư ử như đứa trẻ bị đòn oan. Chắc anh có gọi với theo. Tôi không nghe thấy gì hết. Gió thổi ù ù bên tai. Bao nhiêu cảm xúc dịu ngọt về tình yêu, về chiếc hôn đầu mà lũ bạn học từng ca ngợi, từng quảng cáo bay biến sạch. Về đến ký túc xá, tôi vừa thở hổn hển vừa kể lại, cả lũ cười như điên như dại, đổ nghiêng đổ ngả. “Tình yêu của mày chưa đủ mạnh đấy thôi. Yêu nhau là dâng hiến, là cho đi không cần nhận lại”. Đâu phải. Tôi yêu anh nhiều lắm, thương anh nhiều lắm. Hơn cả bản thân mình. Những ngày anh chở hàng vào Nam là những đêm tôi không thể nào yên giấc. Mong mỏi và lo lắng. Nhưng tôi thật sự không hiểu tại sao khi yêu người ta cứ phải ôm nhau, cứ phải hôn nhau, và làm các điều khác nữa. Lũ bạn lại tranh nhau giải thích. Toàn những lời có cánh về tình yêu. Lộng lẫy và ngọt ngào. Có thể chúng nó nói đúng. Nhưng tôi không còn dịp để sửa sai. Anh đã ngã xuống khi xe vào đến Quảng Bình.
Trước lời đề nghị của Bảo, tôi đắn đo. Việc Bảo máu me khắp người, áo quần rách nát hôi hám không phải là trở ngại cho nụ hôn. Bảo hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Bảo ngã xuống như một người lính chân chính. Bảo là bất tử. Bảo sẽ sống tươi đẹp trong kí ức của người còn sống. Nhưng quy định vẫn là quy định. Kỉ luật chiến trường không cho phép ai làm khác. Nó là biểu hiện ý thức tự giác của mỗi người chiến sĩ, vừa là quân lệnh thực hiện nghị quyết của chi bộ. Tôi băn khoăn. Thời gian sống của Bảo chẳng còn bao nhiêu. Nếu báo cáo, rồi họp và xin phép chắc sẽ không kịp. Ánh mắt Bảo cháy cồn lên điều gì đó thật khó tả. Dịu dàng và khẩn thiết. Khát khao và mãnh liệt. Trong một giây, tôi thoáng rùng mình. Như có luồng điện cực mạnh chạy suốt sống lưng. Tôi quỳ xuống, rồi bất ngờ ôm choàng lấy Bảo. Mười đầu ngón tay lùa lên mái tóc rối bời đầy bùn đất của Bảo. Đôi môi tôi hôn lần lần từ ngực, rồi đến cổ. Và dừng lại rất lâu ở đôi môi bệch bạc vì mất máu của Bảo. Ban đầu chậm rãi, ngập ngừng. Sau gấp gáp và háo hức. Không phải Bảo mà chính tôi, chính tôi mới là kẻ thèm khát và tham lam. Tôi ghì chặt đầu Bảo trong vòng tay. Trong nụ hôn ngọt ngào và dài bất tận ấy, tâm trí tôi hiện lên một thị xã vừa nghèo vừa cổ. Những ngôi nhà lá có nhiều đầu dóc lởm chởm chống ngược trên nóc. Để chống bão. Quốc lộ số 5 chạy xuyên dọc phố. Trước cửa nhà nào cũng bầy la liệt từng cuộn cót lớn và tre nứa. Nhà máy sứ trẻ trung cùng tiếng máy ầm ì. Nước mắt tôi chợt ứa ra. “Chị khóc à? Em toại nguyện lắm. Vĩnh biệt chị”. Tôi thầm thì: “Vĩnh biệt... Vĩnh biệt anh thân yêu”. Hình như Bảo mỉm cười vẻ mãn nguyện. Rừng cây hiu hắt. Đâu đó hắt lên bầu trời tiếng chim lẻ loi như tiếng rao: “Ai lạc rang húng lìu, bánh mì nóng giòn đ... â... ây”. Tôi bật khóc thành tiếng. Nức nở. Vừa khóc tôi vừa ôm bàn tay còn ấm nóng của Bảo, riết vào ngực mình.
Mải lo miếng cơm manh áo, sau hòa bình hơn 40 năm, tôi mới có dịp đặt chân lên cái thị xã “vừa nghèo vừa cổ” của Bảo. Giờ đã lên thành phố. Một thành phố trẻ. Cái phố Phạm Ngũ Lão toàn nhà tranh vách đất, và những đầu dóc chổng ngược, lởm chởm trên nóc không còn. Như một phép màu kì diệu. Nhà cao tầng, cửa kính sáng choang, lấp lóa hai bên đường. Xe cộ đi lại tưởng như không dứt. Không còn nhà nào làm nghề đan cót và bán nữa. Đường vào nghĩa trang liệt sĩ thành phố rợp mát bóng cây. Xe đi chầm chậm như sợ làm kinh động những linh hồn đang yên nghỉ. Trong nghĩa trang đã có nhiều người đến trước. Khói hương bảng lảng quấn quýt trên tán cây. Mọi người đi lại nhẹ nhàng. Im lặng và thành kính. Chỉ có tiếng gió reo và những trái tim đang thổn thức. Tôi thong thả đốt một nắm hương trầm. Một nửa cắm vào trong cái lư bằng đá đặt trước đài Tổ quốc ghi công. Một nửa cắm lên từng ngôi mộ trong nghĩa trang. Mỗi nấm mộ là một con người, là một cuộc đời. Có tên và chưa rõ tên. Hoài bão và đợi chờ. Chiến đấu và hi sinh. Tôi dành ra bảy nén hương và tiến lại ngôi mộ của Bảo. Và trang trọng đặt xuống bó huệ trắng muốt. Xong xuôi, chắp hai tay trước ngực, tôi thả hồn vào dòng suy tưởng hiếm hoi mà bấy lâu mải bon chen quên mất. Những mảnh ghép quá khứ ẩn hiện. Những gương mặt thân yêu lần lượt diễu qua. Những người anh hùng ấy một thời ba lô trĩu nặng vượt Trường Sơn đi giải phóng miền Nam. Nào Cổng Trời, nào dốc Ba Cô, nào khe Hổ Vồ... Giờ đây máu thịt của họ đã hòa vào đất đai cây cỏ. “Anh Bảo”. Tôi bật ra tiếng gọi. Tự nhiên tôi thấy mình có lỗi trong cái chết của Bảo. May thay, sự đền đáp của người đương thời với sự hi sinh của ngàn vạn liệt sĩ đã làm lòng tôi nguôi ngoai. Và tôi cũng đang hết sức mình trả món nợ ấy. Trả đến trọn đời.