|
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi vùng cao Việt Bắc (1960). Ảnh TTXVN |
1. Theo chính lời kể của Hồ Chí Minh thì từ khi còn rất trẻ, Người đã thấm thía nỗi nhục mất nước và giác ngộ sâu sắc rằng “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” (Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994). Đó là động lực, niềm tin và cũng là những hành động hàng ngày trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng chuyên nghiệp của Người, kể cả khi còn lặng lẽ bôn ba khắp thế giới đi tìm hình của nước hay khi đã ở cương vị đứng đầu của một quốc gia độc lập. Trong những năm tháng ấy, người đã sống nhiều cuộc đời, làm đủ nghề để hiểu về xã hội, đời sống, những vấn đề của các dân tộc, nghiền ngẫm với những gì mình đã biết chỉ để trả lời cho câu hỏi: vì sao có sự bất công giữa người với người? Làm sao để mọi giống người trên thế giới có thể sống tự do, bình đẳng và hạnh phúc? Hồ Chí Minh cũng đã tiếp cận với nhiều phong trào yêu nước và cách mạng, đã nghiên cứu đủ thứ chủ nghĩa và nhận ra rằng: làm cách nào để giành lại độc lập cho dân tộc mình và các dân tộc thuộc địa, đem lại tự do hạnh phúc cho người lao khổ, là chủ nghĩa có ý nghĩa nhất, cần thiết nhất. Cuối cùng Người chọn chủ nghĩa ủng hộ phong trào giải phóng các dân tộc bị áp bức, đem tại tự do, bình đẳng cho con người. Người cũng hiểu không có một “nước mẹ” nào lại tự nguyện trao những quyền sơ đẳng nhưng công bằng ấy cho các dân tộc thuộc địa mà cần phải tiến hành một cuộc đấu tranh toàn diện để giành lấy quyền sống cho nhân dân mình. Để làm được điều này cần phải thức tỉnh nhân dân bị nô dịch đứng lên làm cuộc cách mạng tự giải phóng để thoát khỏi mọi áp bức, bằng cách đồng thời phải dựa vào cả phong trào của nhân dân các nước, kể cả ở chính đất nước của kẻ đang đô hộ mình. Rồi khi đã giành được độc lập lại phải bắt tay vào xây dựng một thể chế mới, đảm bảo cho mọi người dân đều được hưởng hạnh phúc của tự do và độc lập. Tất cả phải bắt đầu từ nhận thức, từ sức mạnh thức tỉnh, nhận thức đúng kẻ thù, đúng vấn đề của chính mình và cách giải quyết đúng đắn vấn đề đó. Để làm được điều này phải dựa vào sức mạnh của văn hóa. Văn hóa không phải là sức mạnh trực tiếp nhưng là tiền đề để tạo ra sức mạnh quật khởi của một dân tộc.
Bài học về sự thức tỉnh ý thức dân tộc, kết họ thành một khối như bài học vỡ lòng, bài học nằm lòng rồi trở thành nguyên lý mở đường cho một cuộc vận động cách mạng. Từ Bản án chế độ thực dân Pháp cho đến Đường kách mệnh đều thấm đẫm tư tưởng này. Năm 1943, Người đã viết về đường hướng phát triển văn hóa của một quốc gia chính là phải xây dựng tâm lý dân tộc là tư tưởng độc lập, tự cường, là mọi người dân biết hy sinh mình làm lợi ích cho quần chúng; về mặt xã hội thì mọi sự nghiệp có liên quan đến quyền lợi của nhân dân và chính trị chính là dân quyền cùng với việc xây dựng một nền kinh tế mới phù hợp (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, T.3, tr. 431). Sau khi đã giành được chính quyền, trở thành người đứng đầu của một quốc gia có chủ quyền, Người đã tuyên bố tư tưởng về “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, cụ thể hóa thêm một bước những suy nghĩ trước đó của mình trong tình hình mới. Tư tưởng ấy nhất quán, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động chính trị của Người.
Cũng cần nhắc thêm rằng, những tư tưởng lớn, ở những thời kỳ khác nhau hay cùng thời, đều nhìn thấy sức mạnh to lớn của văn hóa đối với những cuộc vận động xã hội, hướng tới những thay đổi để tồn tại và phát triển. Cùng thời nhà cách mạng Hồ Chí Minh viết ra những tư tưởng lớn về văn hóa trên đây, nhà nghiên cứu văn hóa Đào Duy Anh cũng cho rằng “cái văn hóa của tổ tiên ta đã gây dựng trong hai nghìn năm… có sinh khí mạnh mẽ lắm…” song xã hội nước ta khi “gặp tình thế bắt phải khai thông, thì nó lộ ra ngay hết mọi nhược điểm”. Và “bi kịch hiện thời của dân tộc là sự xung đột của những giá trị văn hóa cũ ấy với những điều khác lạ của văn hóa phương Tây” và xung đột này “quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy” (Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa-Thông tin, H.2000). Bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng Cộng sản Việt Nam do Trường Chinh khởi thảo cũng xác định: “Nhật lợi dụng văn hóa để tuyên truyền chính sách Đại Đông Á” để lừa mỵ dân tộc, còn thực dân Pháp thì “thực hiện chính sách văn hóa cực kỳ nguy hại và thâm độc”. Cho nên “Đảng cần có cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa, đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa…thụt lùi” (Đề cương văn hóa Việt Nam 1943). Như vậy, từ góc nhìn nghiên cứu khoa học thuần túy hay tư tưởng của một nhà cách mạng chuyên nghiệp, đều có một điểm chung là văn hóa có vai trò vô cùng to lớn, có tác dụng mạnh mẽ tới các cuộc vận động xã hội, tới sự tồn vong của một quốc gia, dân tộc.
Lướt qua đôi nét lịch sử như thế để thấy rõ tính cấp thiết của việc xây dựng một nền văn hóa mới có vai trò “soi đường cho quốc dân đi” quan trọng đến mức độ nào trong giai đoạn lịch sử này. Và trong thực tế, tư tưởng văn hóa cứu quốc, văn hóa kháng chiến kiến quốc đã hình thành, phát triển từ những đòi hỏi của thực tiễn. Nó là những căn cứ quan trọng để hình thành nên một hệ thống nội dung quan điểm về văn hóa cứu quốc, góp phần to lớn vào sự phục hưng dân tộc, vào công cuộc chiến tranh vệ quốc, xây dựng đất nước và là tiền đề cho thay đổi nhận thức trong nhiều lĩnh vực, trở thành yếu tố nội sinh cho sự phát triển, thành nền tảng tinh thần của xã hội và mục tiêu của sự phát triển.
2. Sau cách mạng tháng Tám 1945, giữa bộn bề công việc của những ngày đầu giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã quan tâm nhiều đến vấn đề văn hóa dân tộc. Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tổ chức ở Hà Nội có hơn 200 nhà hoạt động văn hóa toàn quốc và đại biểu các ban, ngành của quốc gia. Tại đây, Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai yếu tố quan trọng nhất để văn hóa thực sự “soi đường cho quốc dân đi” là yếu tố con người và môi trường văn hóa; thấy được tính chất tiên tiến, cách mạng của nền văn hóa mới nằm ở mỗi cá nhân và ở ý thức đối với cộng đồng.
Người nhìn thấy sức mạnh to lớn của văn hóa ở chỗ nó có thể cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, nên trong hầu hết những bài viết của mình, dù ở Hội nghị về văn hóa hay trong những dịp tiếp xúc với văn nghệ sĩ, Người đều nhấn mạnh đến sứ mệnh của văn hóa, coi đó là nhiệm vụ xã hội, vì văn hóa góp phần đắc lực vào sự nghiệp “phò chính, trừ tà”, “kháng chiến, kiến quốc”. Bây giờ chúng ta hay sử dụng thuật ngữ văn hóa chính trị, văn hóa công sở... nhưng từ ngay sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã nói đến điều này ở cả phương diện lý thuyết và thực hành. Có thể nói Hồ Chí Minh là người mở đầu và cũng là người kiên trì tư tưởng nâng cao văn hóa chính trị, văn hóa quản trị của đội ngũ cán bộ. Sửa đổi lối làm việc và những bài phát biểu về đạo đức cán bộ là những tác phẩm như vậy. Hiểu sâu sắc cả hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây, Hồ Chí Minh nói nhiều về con người nghĩa vụ, con người đạo đức nhưng cũng đề cao vai trò của dân chủ, tự do, sáng tạo, ý thức về con người cá nhân như một nhân cách. Bởi vậy suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn nói đến những điều này như những phẩm chất khác nhau cùng tồn tại trong mỗi con người. Hồ Chí Minh là người đầu tiên nói đến khả năng “sửa cái xấu, thói hủ hóa, chống tham nhũng” của văn hóa.
Suốt thời gian tại thế, Hồ Chí Minh tập trung làm thay đổi quan niệm cũ về hai vấn đề quan trọng là con người và môi trường, coi đó là căn cốt để tạo nên một chữ đồng cho toàn xã hội. Mỗi cá nhân sống trong cộng đồng chỉ được cộng đồng tôn vinh hay đánh giá cao nếu cá nhân ấy hoàn thành tốt nhất chức phận của mình. Hồ Chí Minh khơi dậy ở mỗi cá nhân sự gắn bó và trách nhiệm với cộng đồng, với Tổ quốc, không phân biệt họ thuộc tầng lớp, đảng phái, giai cấp nào, miễn là người ấy có ích cho sự nghiệp chung.
Đây là một góc nhìn vừa thực tiễn, vừa nhân văn và chỉ có Hồ Chí Minh mới làm tốt được điều này. Người nhìn mỗi cá nhân là một tập hợp của nhiều yếu tố, đa diện, rộng hơn cái nhìn khuôn cứng họ vào trong những lý lịch chính trị hay công việc xã hội họ đảm nhiệm. Nhìn lại những ứng xử của Hồ Chí Minh ở tầm vĩ mô đến các quan hệ cụ thể với những người thuộc giới nhân sĩ, trí thức, quan lại, thân hào... kể cả những người thuộc các đảng phái đối lập trong những năm tháng trước và sau thời điểm tháng 8 năm 1945 và những năm kháng chiến, mới thấy hết tầm nhìn chiến lược trong văn hóa chính trị và ứng xử của người.
Tư tưởng Tổ quốc trên hết đã động viên bao nhiêu tầng lớp nhân dân tạm xếp những băn khoăn, do dự của riêng mình sang một bên, giúp họ dấn thân vào cuộc kháng chiến giữ nước, hay nói như Nguyễn Tuân là “đứng dưới lá cờ nghĩa của cách mạng”. Cách ứng xử của Hồ Chí Minh với đội ngũ trí thức và các nhà hoạt động xã hội có uy tín không chỉ là một sách lược của cách mạng trong một thời điểm mà nó mang ý nghĩa lâu dài, nhân văn, có xuất phát điểm từ chỗ đất nước là của chung, phải từ lợi ích của đất nước mà lựa chọn những người xứng đáng làm việc cho nước, cho dân, chứ không vì lợi ích của một tổ chức, đảng phái nào.
Những tư tưởng về con người và văn hóa của Hồ Chí Minh là giải quyết những vấn đề thực tiễn, là “soi đường cho quốc dân đi” thực sự, đã tạo ra những thay đổi lớn, tích cực trong ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng, đặc biệt ở sự tin yêu người đứng đầu, sự đồng lòng với những chủ trương lớn, kích thích tình yêu và khát vọng cống hiến. Tư tưởng này ở Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ những am hiểu sâu sắc về truyền thống văn hóa và con người Việt Nam. Đây không phải là những suy luận thiếu căn cứ. Nếu nhìn vào những ý kiến Hồ Chí Minh nói về tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng, sức mạnh dân tộc trước họa xâm lăng sẽ thấy rõ điều đó. Với Hồ Chí Minh, người Việt Nam thuộc bất cứ tầng lớp, dân tộc, tôn giáo nào cũng đều có sự gắn bó với quê hương, xứ sở, đất nước, cộng đồng, nhân dân... Nếu cách mạng biết khơi dậy ở họ tình cảm và nghĩa vụ ấy thì hầu hết mọi người dân sẽ đem “tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” (Tuyên ngôn Độc lập). Ở đây, có thể nói rằng Hồ Chí Minh đặt vấn đề Tổ quốc trên hết không phải chỉ là một khẩu hiệu chính trị nhất thời, mà là một tư tưởng xuyên suốt hoạt động chính trị của Người. Tư tưởng này phát huy tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ nền độc lập. Người nhìn vấn đề dân tộc, đất nước cao hơn khía cạnh thái độ chính trị, quyền lợi của mỗi cá nhân, tầng lớp, đảng phái...
Cách nhìn ấy không chỉ sáng suốt vào thời điểm ấy mà nó cần phải trở thành một vấn đề mang tính căn bản cả trong lý luận và thực tiễn để xây dựng đất nước, vì nếu vận dụng tốt điều này có thể đoàn kết mọi lực lượng để nâng tầm sức mạnh dân tộc. Tiếc rằng sau này có nơi, có lúc nhiều người trong bộ máy đã không thấm được tinh thần Tổ quốc trên hết mà đặt lợi ích của tổ chức mình lên trên, đã bộc lộ sự hẹp hòi, thiển cận chính trị nên đã gây ra những đổ vỡ không đáng có.
3. Tư tưởng “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” đến nay vẫn tiếp tục tỏa sáng. Tiếp thu tinh thần ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán, kiên trì quan điểm coi văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa) mà Đảng phải nắm lấy, lãnh đạo và tổ chức để đi đúng đường hướng “phò chính trừ tà, kháng chiến, kiến quốc”.
Nếu tính đến thời điểm tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất họp năm 1946 ở Hà Nội và Hội nghị lần thứ 2 năm 1948 trên chiến khu, thì cũng có thể thấy Đảng coi trọng vai trò của văn hóa như thế nào. Từ bấy đến nay, tuy không tổ chức thêm một Hội nghị toàn quốc nào, nhưng những văn kiện các kỳ đại hội, nghị quyết chuyên đề về văn hóa đã ngày càng nhận thức sâu hơn, thực hiện nhiều phong trào, nhiều cuộc vận động phát triển văn hóa, xây dựng con người hơn. Trong suốt mấy chục năm qua, từ một nền văn hóa cứu quốc, chuyển qua văn hóa kháng chiến kiến quốc, văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, thành mục tiêu và động lực cho sự phát triển… đã chứng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ngày càng lan tỏa, ảnh hưởng trong đời sống. Đại hội XIII của Đảng đã nói về văn hóa với những nội dung cụ thể, gắn với giai đoạn mới của lịch sử dân tộc như vấn đề hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, đã coi yêu cầu khơi dậy sức mạnh dân tộc, khát vọng cống hiến để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, hạnh phúc như là những nhiệm vụ hàng đầu của văn hóa. Đó là những nhận thức mới và yêu cầu mới để văn hóa tiếp tục “soi đường cho quốc dân đi”.
Những bài học về văn hóa của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị khoa học, còn nguyên ý nghĩa dẫn đường. Những việc làm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về xã hội, con người, đất nước, nhân dân, đạo đức cán bộ, ý thức công dân… vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Chỉ cần nhìn vào bài học dùng người của Hồ Chí Minh đã thấy vì sao Người thành công; còn chúng ta hiện nay đưa ra rất nhiều lý thuyết, rất nhiều tiêu chí, mở đủ các cuộc học tập, vận động… mà hiệu quả không như mong muốn? Phải chăng Hồ Chí Minh khi dùng người bao giờ cũng chú ý tới cốt cách con người, nhân cách văn hóa, tài năng và bản lĩnh của người đó rồi từng bước rèn luyện họ, đưa họ vào con đường mình mong muốn, qua công việc mà để họ nhận thức ra tư tưởng chính trị họ theo, chứ không bắt đầu từ nguồn gốc chính trị, lý lịch chính trị.
Người luôn nhìn văn hóa và con người trong sự vận động biện chứng của xã hội, của lịch sử và bản thân mỗi cá nhân, chứ không cứng nhắc, giáo điều. Nhiều năm qua trong công tác cán bộ, Đảng đã quá đề cao tiêu chí chính trị, trong đó coi trọng nguồn gốc chính trị, lý lịch chính trị, bằng cấp chính trị... hơn bản lĩnh chính trị và năng lực làm việc. Do đánh giá văn hóa và con người chủ yếu từ góc nhìn tư tưởng hệ, chính trị hóa văn hóa, chính trị hóa con người... mà không xem xét đúng bản chất vấn đề (về bản chất văn hóa là sự dung hợp, đa nguyên; trong mỗi con người là tổng hòa của nhiều con người như con người chính trị, con người kinh tế, con người văn hóa, con người bản năng, con người tôn giáo, con người đạo đức v.v…) mà một khi đã tuyệt đối hóa một khía cạnh nào đó, dù khía cạnh đó là quan trọng, là cơ bản thì cũng sẽ dẫn đến nhận thức chưa đầy đủ về đối tượng. Do điểm xuất phát chưa đúng nên hệ tiêu chí để đánh giá con người cũng không đầy đủ, không khoa học và mỗi cá nhân sẽ hướng về những tiêu chí chưa đúng, chưa đủ ấy mà lựa chọn ứng xử.
Mấy chục năm gần đây, dù trong các văn bản chúng ta luôn nói đến những giá trị mang tính lý tưởng, tốt đẹp nhưng về thực chất, từ các cơ quan có trách nhiệm cho đến xã hội đều đề cao giá trị chính trị, giá trị kinh tế, giá trị quyền lực mà xem nhẹ giá trị tri thức và nhân cách của con người. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng để nảy sinh sự tha hóa, xuống cấp của đạo đức xã hội, là nguồn gốc của dối trá và tham nhũng. Những giáo dục đạo đức bằng vận động, thuyết phục, tuyên truyền ít hiệu quả. Không ít quan chức cao cấp viết sách nói về tinh thần phục vụ nhân dân, về đạo đức cách mạng... nhưng trong đời sống thực thì hủ hóa, tham nhũng, phạm pháp. Tư tưởng đức trị và nhân trị không thể trở thành nền tảng của một xã hội dân chủ công bằng, văn mình.
Phải đề cao pháp trị, nhưng trước hết phải thay đổi quan điểm đánh giá về con người và môi trường, về văn hóa nói chung theo tinh thần khai phóng Hồ Chí Minh. Tư tưởng khai phóng về văn hóa Hồ Chí Minh có điểm xuất phát bắt đầu từ chỗ vì đất nước, nhân dân, dân tộc và cái đích cuối cùng hướng đến cũng là độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho mỗi người. Nhưng Hồ Chí Minh thành công vì ở Người mục đích và phương thức hành động luôn nhất quán, nói và làm luôn song hành trên nền tảng yêu thương và tôn trọng con người, vì hạnh phúc con người!
Nguồn: http://baovannghe.com.vn